Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
Toàn cầu hóa và bản sắc văn hóa dân tộc
Có thể đồng ý với nhận xét của nhà báo Rô-bớt J. Sa-mu-ơn-sân (Robert J. Samuelson) khi ông cho rằng: “Toàn cầu hoá là cách gọi mới cho một quá trình cũ.”
Trải qua mấy ngàn năm, thế giới đã phát triển chính là bằng con đường mở rộng quan hệ giao lưu về mọi mặt, từ kinh tế đến văn hoá giữa các nước, các khu vực. “Con đường tơ lụa” xuyên Á qua núi cao và sa mạc, các tuyến hàng hải giữa các nước, các châu lục từ khi có thuyền buồm và la bàn,... có thể coi là những bằng chứng hiển nhiên đầu tiên của cái gọi là quá trình “giao lưu quốc tế” trên phạm vi toàn thế giới đó. Từ mấy thế kỉ trước, có thể nói Hội An, Phố Hiến,... đã là những “thành phố mở cửa” đầu tiên của nước ta...
Tuy nhiên, trong một vài thập kỉ trở lại đây, rõ ràng đã xuất hiện nhu cầu gọi tiến trình giao lưu quốc tế đó bằng một cái tên mới là “toàn cầu hoá” bởi những biểu hiện mang tính “bùng nổ” của tiến trình này: đó là sự xuất hiện “đại trà” của các “xa lộ thông tin” trên toàn thế giới, sự mở rộng nhanh chóng của quá trình “tự do hoá thương mại”, sự sáp nhập các công ty liên quốc gia hùng mạnh trong các lĩnh vực tin học, truyền thông, chế tạo xe hơi,... sự nhất thể hoá về kinh tế - tài chính ở các khu vực, v.v. diễn ra trong bối cảnh “hậu chiến tranh lạnh” và sự phát triển như vũ bão của kĩ thuật công nghệ hiện đại,...
Đặc biệt trên lĩnh vực văn hoá, quá trình “toàn cầu hoá” diễn ra thật sự sôi động với sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện truyền thông đại chúng và sự bùng nổ của các ngành công nghiệp văn hoá. [...]
Như mọi hiện tượng đều có hai mặt phải - trái, thuận nghịch, toàn cầu hoá, theo chữ dùng của tác giả R.J. Sa-mu-ơn-sân đã nhắc ở trên, là một “thanh gươm hai lưỡi”. “Một mặt nó là cỗ xe có động cơ mạnh làm tăng tốc độ phát triển kinh tế, mở ra kĩ thuật mới và tăng sức sống ở cả những nước giàu lẫn nước nghèo. Mặt khác, nó cũng là một tiến trình đầy tranh cãi tiến công vào chủ quyền quốc gia, làm xói mòn nền văn hoá và truyền thống địa phương, đe doạ sự ổn định kinh tế và xã hội.”.
Có thể nói, lĩnh vực văn hoá là lĩnh vực chịu tác động hai mặt, dễ nhận thấy nhất của quá trình toàn cầu hoá.
Trong bài “Giao lưu văn hoá và việc bảo vệ bản sắc dân tộc” đăng trên trang nhất, báo Nhân Dân (9 - 1 - 2000), nhà báo Thái Bảo có đưa ra một nhận xét: Trong cách hiểu hiện nay về giao lưu văn hoá còn có “điều chưa thật khách quan là những lệch lạc và tiêu cực trong giao lưu văn hoá quốc tế thường bị phê phán, trong khi đó những mặt tích cực của nó dường như ít được nhấn mạnh”.
Từ bao đời nay, nền văn hoá nước ta không chỉ là thành quả của hàng ngàn năm chiến đấu giữ nước và lao động sáng tạo dựng nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam mà còn là kết quả của các quá trình hấp thụ tinh hoa của nhiều nền văn hoá, văn minh thế giới. Sự gặp gỡ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội, giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin (Marx - Lenin) diễn ra trong thế kỉ XX ở nước ta đem lại những thay đổi cơ bản trong số phận lịch sử của dân tộc, là một biểu hiện đầy sức thuyết phục về mặt tích cực của sự giao lưu văn hoá nói trên. Trong bối cảnh có thể nói là có sự khủng hoảng lí luận ở phạm vi toàn cầu về con đường đi sắp tới của các dân tộc, sự kiện này là một điểm sáng đáng lưu ý.
Trong quá trình toàn cầu hoá, về mặt văn hoá, chúng ta cần thấy những thời cơ tốt để mở rộng cửa “đón nắng gió” bốn phương: tăng thêm tính hiện đại của văn hoá (để dứt bỏ những gì là cổ hủ, thủ cựu - hệ quả của một nền sản xuất nhỏ, phân tán), mở rộng và đào sâu thêm các giá trị nhân văn - dân chủ - quốc tế của văn hoá (để loại trừ những tàn dư của ý thức hệ phong kiến, gia trưởng), tiếp thu tính công nghiệp, tính khoa học, tính kỉ cương trong công việc và sinh hoạt giao tiếp cộng đồng (để dứt khoát chia tay với thói quen sống theo “lệ làng” coi thường “phép nước”, thói quen dềnh dang, thù tạc, không biết tiếc thời giờ,...), tiếp cận những thành tựu to lớn của công nghệ kĩ thuật mới trên các lĩnh vực truyền thông, truyền hình, in ấn, sản xuất băng đĩa âm thanh và hình ảnh, sản xuất các phương tiện nghe - nhìn, đổi mới và đa dạng hoá các loại hình nghệ thuật,...
Sức hấp dẫn của những loại hình hoạt động văn hoá, biểu diễn nghệ thuật, vui chơi giải trí cũng như lối sống tiện nghi, hiện đại từ các nước phát triển đối với nhiều người dân nước ta, nhất là đối với lớp trẻ, là điều dễ nhận thấy, có thể nói là đã và đang diễn ra phần nào độc lập với ý muốn chủ quan của chúng ta, đặc biệt là của những người đứng tuổi.
Ngoài mặt thuận của quá trình này, điều chúng ta cần hết sức quan tâm là mặt nghịch của nó, nhất là khi quá trình toàn cầu hoá diễn ra đồng thời với tiến trình mở cửa về kinh tế - văn hoá của nước ta, đồng thời với tiến trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ kế hoạch hoá - tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở đây, có thể nói mặt trái của toàn cầu hoá đã có “mảnh đất thích hợp” để nảy nở sinh sôi, là mặt trái của cơ chế thị trường tồn tại ở nước ta.
Chưa có thời kì nào trong lịch sử nước ta, sức lao động sáng tạo của mỗi con người lại có dịp được phát triển đầy hứa hẹn, xã hội trở nên cởi mở, năng động hơn. Nhưng bên cạnh mặt được rất cơ bản đó cũng có thể nói chưa bao giờ những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc lại phải chịu những tác động xói mòn mạnh mẽ, gay gắt như hiện nay. Nhiều tệ nạn xã hội phát triển như các đại dịch thời Trung cổ. Chỉ hơn mười năm qua, thời gian chưa đủ để một thế hệ sinh ra và trưởng thành, chúng ta có thể thấy, đặc biệt là ở các thành phố, các thị xã, thị tứ,... khá phổ biến một lối sống thực dụng, chạy theo tiện nghi vật chất, tôn thờ đồng tiền, sùng ngoại, coi nhẹ các giá trị lí tưởng, đạo đức của ông cha,... Nhiều sinh hoạt văn hoá, từ lễ hội đến biểu diễn nghệ thuật, bị nhuốm màu thương mại hóa. Các loại hình nghệ thuật, ca nhạc phương Tây ngày càng có nhiều thanh niên hâm mộ, tôn sùng, trong khi các loại hình nghệ thuật cổ truyền như chèo, tuồng, cải lương,... ngày càng thưa vắng người xem. Lớp trẻ lớn lên, nhiều em không còn biết hát dân ca, các bà mẹ không còn biết hát ru,... Thói đua đòi ăn chơi theo kiểu sống gấp “sống hôm nay không biết có ngày mai”, sống xa hoa, vô lối bằng đồng tiền phi lao động đã không còn là hiện tượng hiếm hoi.
Điều đáng nói trước tiên không phải là những hiện tượng tha hoá về nhân cách trong xã hội ta hôm nay. Điều đáng lo lắng hơn là xã hội chúng ta đã chưa tạo ra được một dư luận phê phán đủ mạnh để ngăn chặn những hiện tượng xuống cấp đạo đức như vậy và hậu quả là những hiện tượng “đồi phong bại tục” như vậy cứ ngang nhiên tồn tại, như “chọc tức”, như “trêu ngươi” mọi người! Sự bàng quan, thờ ơ theo kiểu “mũ ni che tai” này dù muốn hay không cũng là sự đồng loã với cái ác.
Bao trùm lên các hiện tượng tiêu cực ấy có thể nói là sự khủng hoảng lòng tin - con người không còn lí tưởng sống đúng đắn, mất định hướng giá trị. Không ít người trở thành tín đồ mù quáng của các dị giáo, của các thứ mê tín dị đoan đang có chiều hướng sinh sôi như nấm sau mưa (Những dãy xe máy, xe con biển trắng và cả biển xanh nối đuôi nhau hàng cây số trên đường vào xin lễ đền Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh là một minh chứng đáng buồn!).
Cùng với sự vận hành của cơ chế thị trường, của quá trình mở cửa, rõ ràng là toàn cầu hoá đang đem lại những thách thức gay gắt cho văn hoá dân tộc.
Toàn cầu hoá, như đã nói là một quá trình tất yếu, khách quan. Nó diễn ra ở mọi quốc gia trên Trái Đất này, không một dân tộc nào có thể bị cám dỗ bởi một thứ “chủ nghĩa biệt lập” nào đó mà đứng ra một bên, tránh được quá trình này động chạm tới mình. Điều quan trọng là chủ động đón nhận nó, có những đối sách thích hợp để phát huy mặt tích cực, hạn chế các tiêu cực mà nó có thể mang lại.
Như một cơ thể cường tráng có thể chống lại được mọi bệnh tật, dân tộc ta cần tự tìm trong chính mình những sức mạnh nội sinh để đứng vững trước các thử thách của toàn cầu hoá. [...]
Toàn cầu hoá chứa đựng thời cơ và những thách thức to lớn. Trong tiến trình lịch sử của mình, dân tộc ta đã tỏ rõ khả năng luôn biết đón nhận những thời cơ thuận lợi và vượt lên trên các thách thức để đi tới.
Thế kỉ XXI sắp tới. Thế giới sẽ chuyển động mạnh hơn bao giờ hết trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập. Chúng ta tin chắc rằng dân tộc Việt Nam sẽ khẳng định được chỗ đứng vững vàng của mình trong trào lưu đó với tất cả bản lĩnh sâu xa của nền văn hoá lâu đời, được tiếp thêm sức mạnh của thời đại, sức mạnh của lí tưởng độc lập dân tộc và công bằng xã hội.
(Theo Một góc nhìn của tri thức, tập một, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002)
Văn bản "Toàn cầu hóa và bản sắc văn hóa dân tộc" được sáng tác bởi tác giả nào dưới đây?
Toàn cầu hóa và bản sắc văn hóa dân tộc
Có thể đồng ý với nhận xét của nhà báo Rô-bớt J. Sa-mu-ơn-sân (Robert J. Samuelson) khi ông cho rằng: “Toàn cầu hoá là cách gọi mới cho một quá trình cũ.”
Trải qua mấy ngàn năm, thế giới đã phát triển chính là bằng con đường mở rộng quan hệ giao lưu về mọi mặt, từ kinh tế đến văn hoá giữa các nước, các khu vực. “Con đường tơ lụa” xuyên Á qua núi cao và sa mạc, các tuyến hàng hải giữa các nước, các châu lục từ khi có thuyền buồm và la bàn,... có thể coi là những bằng chứng hiển nhiên đầu tiên của cái gọi là quá trình “giao lưu quốc tế” trên phạm vi toàn thế giới đó. Từ mấy thế kỉ trước, có thể nói Hội An, Phố Hiến,... đã là những “thành phố mở cửa” đầu tiên của nước ta...
Tuy nhiên, trong một vài thập kỉ trở lại đây, rõ ràng đã xuất hiện nhu cầu gọi tiến trình giao lưu quốc tế đó bằng một cái tên mới là “toàn cầu hoá” bởi những biểu hiện mang tính “bùng nổ” của tiến trình này: đó là sự xuất hiện “đại trà” của các “xa lộ thông tin” trên toàn thế giới, sự mở rộng nhanh chóng của quá trình “tự do hoá thương mại”, sự sáp nhập các công ty liên quốc gia hùng mạnh trong các lĩnh vực tin học, truyền thông, chế tạo xe hơi,... sự nhất thể hoá về kinh tế - tài chính ở các khu vực, v.v. diễn ra trong bối cảnh “hậu chiến tranh lạnh” và sự phát triển như vũ bão của kĩ thuật công nghệ hiện đại,...
Đặc biệt trên lĩnh vực văn hoá, quá trình “toàn cầu hoá” diễn ra thật sự sôi động với sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện truyền thông đại chúng và sự bùng nổ của các ngành công nghiệp văn hoá. [...]
Như mọi hiện tượng đều có hai mặt phải - trái, thuận nghịch, toàn cầu hoá, theo chữ dùng của tác giả R.J. Sa-mu-ơn-sân đã nhắc ở trên, là một “thanh gươm hai lưỡi”. “Một mặt nó là cỗ xe có động cơ mạnh làm tăng tốc độ phát triển kinh tế, mở ra kĩ thuật mới và tăng sức sống ở cả những nước giàu lẫn nước nghèo. Mặt khác, nó cũng là một tiến trình đầy tranh cãi tiến công vào chủ quyền quốc gia, làm xói mòn nền văn hoá và truyền thống địa phương, đe doạ sự ổn định kinh tế và xã hội.”.
Có thể nói, lĩnh vực văn hoá là lĩnh vực chịu tác động hai mặt, dễ nhận thấy nhất của quá trình toàn cầu hoá.
Trong bài “Giao lưu văn hoá và việc bảo vệ bản sắc dân tộc” đăng trên trang nhất, báo Nhân Dân (9 - 1 - 2000), nhà báo Thái Bảo có đưa ra một nhận xét: Trong cách hiểu hiện nay về giao lưu văn hoá còn có “điều chưa thật khách quan là những lệch lạc và tiêu cực trong giao lưu văn hoá quốc tế thường bị phê phán, trong khi đó những mặt tích cực của nó dường như ít được nhấn mạnh”.
Từ bao đời nay, nền văn hoá nước ta không chỉ là thành quả của hàng ngàn năm chiến đấu giữ nước và lao động sáng tạo dựng nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam mà còn là kết quả của các quá trình hấp thụ tinh hoa của nhiều nền văn hoá, văn minh thế giới. Sự gặp gỡ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội, giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin (Marx - Lenin) diễn ra trong thế kỉ XX ở nước ta đem lại những thay đổi cơ bản trong số phận lịch sử của dân tộc, là một biểu hiện đầy sức thuyết phục về mặt tích cực của sự giao lưu văn hoá nói trên. Trong bối cảnh có thể nói là có sự khủng hoảng lí luận ở phạm vi toàn cầu về con đường đi sắp tới của các dân tộc, sự kiện này là một điểm sáng đáng lưu ý.
Trong quá trình toàn cầu hoá, về mặt văn hoá, chúng ta cần thấy những thời cơ tốt để mở rộng cửa “đón nắng gió” bốn phương: tăng thêm tính hiện đại của văn hoá (để dứt bỏ những gì là cổ hủ, thủ cựu - hệ quả của một nền sản xuất nhỏ, phân tán), mở rộng và đào sâu thêm các giá trị nhân văn - dân chủ - quốc tế của văn hoá (để loại trừ những tàn dư của ý thức hệ phong kiến, gia trưởng), tiếp thu tính công nghiệp, tính khoa học, tính kỉ cương trong công việc và sinh hoạt giao tiếp cộng đồng (để dứt khoát chia tay với thói quen sống theo “lệ làng” coi thường “phép nước”, thói quen dềnh dang, thù tạc, không biết tiếc thời giờ,...), tiếp cận những thành tựu to lớn của công nghệ kĩ thuật mới trên các lĩnh vực truyền thông, truyền hình, in ấn, sản xuất băng đĩa âm thanh và hình ảnh, sản xuất các phương tiện nghe - nhìn, đổi mới và đa dạng hoá các loại hình nghệ thuật,...
Sức hấp dẫn của những loại hình hoạt động văn hoá, biểu diễn nghệ thuật, vui chơi giải trí cũng như lối sống tiện nghi, hiện đại từ các nước phát triển đối với nhiều người dân nước ta, nhất là đối với lớp trẻ, là điều dễ nhận thấy, có thể nói là đã và đang diễn ra phần nào độc lập với ý muốn chủ quan của chúng ta, đặc biệt là của những người đứng tuổi.
Ngoài mặt thuận của quá trình này, điều chúng ta cần hết sức quan tâm là mặt nghịch của nó, nhất là khi quá trình toàn cầu hoá diễn ra đồng thời với tiến trình mở cửa về kinh tế - văn hoá của nước ta, đồng thời với tiến trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ kế hoạch hoá - tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở đây, có thể nói mặt trái của toàn cầu hoá đã có “mảnh đất thích hợp” để nảy nở sinh sôi, là mặt trái của cơ chế thị trường tồn tại ở nước ta.
Chưa có thời kì nào trong lịch sử nước ta, sức lao động sáng tạo của mỗi con người lại có dịp được phát triển đầy hứa hẹn, xã hội trở nên cởi mở, năng động hơn. Nhưng bên cạnh mặt được rất cơ bản đó cũng có thể nói chưa bao giờ những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc lại phải chịu những tác động xói mòn mạnh mẽ, gay gắt như hiện nay. Nhiều tệ nạn xã hội phát triển như các đại dịch thời Trung cổ. Chỉ hơn mười năm qua, thời gian chưa đủ để một thế hệ sinh ra và trưởng thành, chúng ta có thể thấy, đặc biệt là ở các thành phố, các thị xã, thị tứ,... khá phổ biến một lối sống thực dụng, chạy theo tiện nghi vật chất, tôn thờ đồng tiền, sùng ngoại, coi nhẹ các giá trị lí tưởng, đạo đức của ông cha,... Nhiều sinh hoạt văn hoá, từ lễ hội đến biểu diễn nghệ thuật, bị nhuốm màu thương mại hóa. Các loại hình nghệ thuật, ca nhạc phương Tây ngày càng có nhiều thanh niên hâm mộ, tôn sùng, trong khi các loại hình nghệ thuật cổ truyền như chèo, tuồng, cải lương,... ngày càng thưa vắng người xem. Lớp trẻ lớn lên, nhiều em không còn biết hát dân ca, các bà mẹ không còn biết hát ru,... Thói đua đòi ăn chơi theo kiểu sống gấp “sống hôm nay không biết có ngày mai”, sống xa hoa, vô lối bằng đồng tiền phi lao động đã không còn là hiện tượng hiếm hoi.
Điều đáng nói trước tiên không phải là những hiện tượng tha hoá về nhân cách trong xã hội ta hôm nay. Điều đáng lo lắng hơn là xã hội chúng ta đã chưa tạo ra được một dư luận phê phán đủ mạnh để ngăn chặn những hiện tượng xuống cấp đạo đức như vậy và hậu quả là những hiện tượng “đồi phong bại tục” như vậy cứ ngang nhiên tồn tại, như “chọc tức”, như “trêu ngươi” mọi người! Sự bàng quan, thờ ơ theo kiểu “mũ ni che tai” này dù muốn hay không cũng là sự đồng loã với cái ác.
Bao trùm lên các hiện tượng tiêu cực ấy có thể nói là sự khủng hoảng lòng tin - con người không còn lí tưởng sống đúng đắn, mất định hướng giá trị. Không ít người trở thành tín đồ mù quáng của các dị giáo, của các thứ mê tín dị đoan đang có chiều hướng sinh sôi như nấm sau mưa (Những dãy xe máy, xe con biển trắng và cả biển xanh nối đuôi nhau hàng cây số trên đường vào xin lễ đền Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh là một minh chứng đáng buồn!).
Cùng với sự vận hành của cơ chế thị trường, của quá trình mở cửa, rõ ràng là toàn cầu hoá đang đem lại những thách thức gay gắt cho văn hoá dân tộc.
Toàn cầu hoá, như đã nói là một quá trình tất yếu, khách quan. Nó diễn ra ở mọi quốc gia trên Trái Đất này, không một dân tộc nào có thể bị cám dỗ bởi một thứ “chủ nghĩa biệt lập” nào đó mà đứng ra một bên, tránh được quá trình này động chạm tới mình. Điều quan trọng là chủ động đón nhận nó, có những đối sách thích hợp để phát huy mặt tích cực, hạn chế các tiêu cực mà nó có thể mang lại.
Như một cơ thể cường tráng có thể chống lại được mọi bệnh tật, dân tộc ta cần tự tìm trong chính mình những sức mạnh nội sinh để đứng vững trước các thử thách của toàn cầu hoá. [...]
Toàn cầu hoá chứa đựng thời cơ và những thách thức to lớn. Trong tiến trình lịch sử của mình, dân tộc ta đã tỏ rõ khả năng luôn biết đón nhận những thời cơ thuận lợi và vượt lên trên các thách thức để đi tới.
Thế kỉ XXI sắp tới. Thế giới sẽ chuyển động mạnh hơn bao giờ hết trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập. Chúng ta tin chắc rằng dân tộc Việt Nam sẽ khẳng định được chỗ đứng vững vàng của mình trong trào lưu đó với tất cả bản lĩnh sâu xa của nền văn hoá lâu đời, được tiếp thêm sức mạnh của thời đại, sức mạnh của lí tưởng độc lập dân tộc và công bằng xã hội.
(Theo Một góc nhìn của tri thức, tập một, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002)
Trong những nhận định sau, nhận định nào đúng, nhận định nào sai khi nói về tác giả Phan Hồng Giang?
(Nhấp vào ô màu vàng để chọn đúng / sai)a) Tham gia nghiên cứu, phê bình văn hóa trước khi đến với sự nghiệp dịch thuật. |
|
b) Từng làm nghiên cứu sinh ngành lí luận văn học tại Trường Đại học Ngôn ngữ Anh. |
|
c) Là con trai cả của nhà nghiên cứu, "nhà phê bình số một" của Việt Nam - Hoài Thanh. |
|
d) Là sinh viên khoa Ngữ văn ở Trường Đại học Tổng hợp Mát-xcơ-va (Nga). |
|
Toàn cầu hóa và bản sắc văn hóa dân tộc
Có thể đồng ý với nhận xét của nhà báo Rô-bớt J. Sa-mu-ơn-sân (Robert J. Samuelson) khi ông cho rằng: “Toàn cầu hoá là cách gọi mới cho một quá trình cũ.”
Trải qua mấy ngàn năm, thế giới đã phát triển chính là bằng con đường mở rộng quan hệ giao lưu về mọi mặt, từ kinh tế đến văn hoá giữa các nước, các khu vực. “Con đường tơ lụa” xuyên Á qua núi cao và sa mạc, các tuyến hàng hải giữa các nước, các châu lục từ khi có thuyền buồm và la bàn,... có thể coi là những bằng chứng hiển nhiên đầu tiên của cái gọi là quá trình “giao lưu quốc tế” trên phạm vi toàn thế giới đó. Từ mấy thế kỉ trước, có thể nói Hội An, Phố Hiến,... đã là những “thành phố mở cửa” đầu tiên của nước ta...
Tuy nhiên, trong một vài thập kỉ trở lại đây, rõ ràng đã xuất hiện nhu cầu gọi tiến trình giao lưu quốc tế đó bằng một cái tên mới là “toàn cầu hoá” bởi những biểu hiện mang tính “bùng nổ” của tiến trình này: đó là sự xuất hiện “đại trà” của các “xa lộ thông tin” trên toàn thế giới, sự mở rộng nhanh chóng của quá trình “tự do hoá thương mại”, sự sáp nhập các công ty liên quốc gia hùng mạnh trong các lĩnh vực tin học, truyền thông, chế tạo xe hơi,... sự nhất thể hoá về kinh tế - tài chính ở các khu vực, v.v. diễn ra trong bối cảnh “hậu chiến tranh lạnh” và sự phát triển như vũ bão của kĩ thuật công nghệ hiện đại,...
Đặc biệt trên lĩnh vực văn hoá, quá trình “toàn cầu hoá” diễn ra thật sự sôi động với sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện truyền thông đại chúng và sự bùng nổ của các ngành công nghiệp văn hoá. [...]
Như mọi hiện tượng đều có hai mặt phải - trái, thuận nghịch, toàn cầu hoá, theo chữ dùng của tác giả R.J. Sa-mu-ơn-sân đã nhắc ở trên, là một “thanh gươm hai lưỡi”. “Một mặt nó là cỗ xe có động cơ mạnh làm tăng tốc độ phát triển kinh tế, mở ra kĩ thuật mới và tăng sức sống ở cả những nước giàu lẫn nước nghèo. Mặt khác, nó cũng là một tiến trình đầy tranh cãi tiến công vào chủ quyền quốc gia, làm xói mòn nền văn hoá và truyền thống địa phương, đe doạ sự ổn định kinh tế và xã hội.”.
Có thể nói, lĩnh vực văn hoá là lĩnh vực chịu tác động hai mặt, dễ nhận thấy nhất của quá trình toàn cầu hoá.
Trong bài “Giao lưu văn hoá và việc bảo vệ bản sắc dân tộc” đăng trên trang nhất, báo Nhân Dân (9 - 1 - 2000), nhà báo Thái Bảo có đưa ra một nhận xét: Trong cách hiểu hiện nay về giao lưu văn hoá còn có “điều chưa thật khách quan là những lệch lạc và tiêu cực trong giao lưu văn hoá quốc tế thường bị phê phán, trong khi đó những mặt tích cực của nó dường như ít được nhấn mạnh”.
Từ bao đời nay, nền văn hoá nước ta không chỉ là thành quả của hàng ngàn năm chiến đấu giữ nước và lao động sáng tạo dựng nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam mà còn là kết quả của các quá trình hấp thụ tinh hoa của nhiều nền văn hoá, văn minh thế giới. Sự gặp gỡ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội, giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin (Marx - Lenin) diễn ra trong thế kỉ XX ở nước ta đem lại những thay đổi cơ bản trong số phận lịch sử của dân tộc, là một biểu hiện đầy sức thuyết phục về mặt tích cực của sự giao lưu văn hoá nói trên. Trong bối cảnh có thể nói là có sự khủng hoảng lí luận ở phạm vi toàn cầu về con đường đi sắp tới của các dân tộc, sự kiện này là một điểm sáng đáng lưu ý.
Trong quá trình toàn cầu hoá, về mặt văn hoá, chúng ta cần thấy những thời cơ tốt để mở rộng cửa “đón nắng gió” bốn phương: tăng thêm tính hiện đại của văn hoá (để dứt bỏ những gì là cổ hủ, thủ cựu - hệ quả của một nền sản xuất nhỏ, phân tán), mở rộng và đào sâu thêm các giá trị nhân văn - dân chủ - quốc tế của văn hoá (để loại trừ những tàn dư của ý thức hệ phong kiến, gia trưởng), tiếp thu tính công nghiệp, tính khoa học, tính kỉ cương trong công việc và sinh hoạt giao tiếp cộng đồng (để dứt khoát chia tay với thói quen sống theo “lệ làng” coi thường “phép nước”, thói quen dềnh dang, thù tạc, không biết tiếc thời giờ,...), tiếp cận những thành tựu to lớn của công nghệ kĩ thuật mới trên các lĩnh vực truyền thông, truyền hình, in ấn, sản xuất băng đĩa âm thanh và hình ảnh, sản xuất các phương tiện nghe - nhìn, đổi mới và đa dạng hoá các loại hình nghệ thuật,...
Sức hấp dẫn của những loại hình hoạt động văn hoá, biểu diễn nghệ thuật, vui chơi giải trí cũng như lối sống tiện nghi, hiện đại từ các nước phát triển đối với nhiều người dân nước ta, nhất là đối với lớp trẻ, là điều dễ nhận thấy, có thể nói là đã và đang diễn ra phần nào độc lập với ý muốn chủ quan của chúng ta, đặc biệt là của những người đứng tuổi.
Ngoài mặt thuận của quá trình này, điều chúng ta cần hết sức quan tâm là mặt nghịch của nó, nhất là khi quá trình toàn cầu hoá diễn ra đồng thời với tiến trình mở cửa về kinh tế - văn hoá của nước ta, đồng thời với tiến trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ kế hoạch hoá - tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở đây, có thể nói mặt trái của toàn cầu hoá đã có “mảnh đất thích hợp” để nảy nở sinh sôi, là mặt trái của cơ chế thị trường tồn tại ở nước ta.
Chưa có thời kì nào trong lịch sử nước ta, sức lao động sáng tạo của mỗi con người lại có dịp được phát triển đầy hứa hẹn, xã hội trở nên cởi mở, năng động hơn. Nhưng bên cạnh mặt được rất cơ bản đó cũng có thể nói chưa bao giờ những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc lại phải chịu những tác động xói mòn mạnh mẽ, gay gắt như hiện nay. Nhiều tệ nạn xã hội phát triển như các đại dịch thời Trung cổ. Chỉ hơn mười năm qua, thời gian chưa đủ để một thế hệ sinh ra và trưởng thành, chúng ta có thể thấy, đặc biệt là ở các thành phố, các thị xã, thị tứ,... khá phổ biến một lối sống thực dụng, chạy theo tiện nghi vật chất, tôn thờ đồng tiền, sùng ngoại, coi nhẹ các giá trị lí tưởng, đạo đức của ông cha,... Nhiều sinh hoạt văn hoá, từ lễ hội đến biểu diễn nghệ thuật, bị nhuốm màu thương mại hóa. Các loại hình nghệ thuật, ca nhạc phương Tây ngày càng có nhiều thanh niên hâm mộ, tôn sùng, trong khi các loại hình nghệ thuật cổ truyền như chèo, tuồng, cải lương,... ngày càng thưa vắng người xem. Lớp trẻ lớn lên, nhiều em không còn biết hát dân ca, các bà mẹ không còn biết hát ru,... Thói đua đòi ăn chơi theo kiểu sống gấp “sống hôm nay không biết có ngày mai”, sống xa hoa, vô lối bằng đồng tiền phi lao động đã không còn là hiện tượng hiếm hoi.
Điều đáng nói trước tiên không phải là những hiện tượng tha hoá về nhân cách trong xã hội ta hôm nay. Điều đáng lo lắng hơn là xã hội chúng ta đã chưa tạo ra được một dư luận phê phán đủ mạnh để ngăn chặn những hiện tượng xuống cấp đạo đức như vậy và hậu quả là những hiện tượng “đồi phong bại tục” như vậy cứ ngang nhiên tồn tại, như “chọc tức”, như “trêu ngươi” mọi người! Sự bàng quan, thờ ơ theo kiểu “mũ ni che tai” này dù muốn hay không cũng là sự đồng loã với cái ác.
Bao trùm lên các hiện tượng tiêu cực ấy có thể nói là sự khủng hoảng lòng tin - con người không còn lí tưởng sống đúng đắn, mất định hướng giá trị. Không ít người trở thành tín đồ mù quáng của các dị giáo, của các thứ mê tín dị đoan đang có chiều hướng sinh sôi như nấm sau mưa (Những dãy xe máy, xe con biển trắng và cả biển xanh nối đuôi nhau hàng cây số trên đường vào xin lễ đền Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh là một minh chứng đáng buồn!).
Cùng với sự vận hành của cơ chế thị trường, của quá trình mở cửa, rõ ràng là toàn cầu hoá đang đem lại những thách thức gay gắt cho văn hoá dân tộc.
Toàn cầu hoá, như đã nói là một quá trình tất yếu, khách quan. Nó diễn ra ở mọi quốc gia trên Trái Đất này, không một dân tộc nào có thể bị cám dỗ bởi một thứ “chủ nghĩa biệt lập” nào đó mà đứng ra một bên, tránh được quá trình này động chạm tới mình. Điều quan trọng là chủ động đón nhận nó, có những đối sách thích hợp để phát huy mặt tích cực, hạn chế các tiêu cực mà nó có thể mang lại.
Như một cơ thể cường tráng có thể chống lại được mọi bệnh tật, dân tộc ta cần tự tìm trong chính mình những sức mạnh nội sinh để đứng vững trước các thử thách của toàn cầu hoá. [...]
Toàn cầu hoá chứa đựng thời cơ và những thách thức to lớn. Trong tiến trình lịch sử của mình, dân tộc ta đã tỏ rõ khả năng luôn biết đón nhận những thời cơ thuận lợi và vượt lên trên các thách thức để đi tới.
Thế kỉ XXI sắp tới. Thế giới sẽ chuyển động mạnh hơn bao giờ hết trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập. Chúng ta tin chắc rằng dân tộc Việt Nam sẽ khẳng định được chỗ đứng vững vàng của mình trong trào lưu đó với tất cả bản lĩnh sâu xa của nền văn hoá lâu đời, được tiếp thêm sức mạnh của thời đại, sức mạnh của lí tưởng độc lập dân tộc và công bằng xã hội.
(Theo Một góc nhìn của tri thức, tập một, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002)
Văn bản "Toàn cầu hóa và bản sắc văn hóa dân tộc" được trích từ tác phẩm nào dưới đây?
Toàn cầu hóa và bản sắc văn hóa dân tộc
Có thể đồng ý với nhận xét của nhà báo Rô-bớt J. Sa-mu-ơn-sân (Robert J. Samuelson) khi ông cho rằng: “Toàn cầu hoá là cách gọi mới cho một quá trình cũ.”
Trải qua mấy ngàn năm, thế giới đã phát triển chính là bằng con đường mở rộng quan hệ giao lưu về mọi mặt, từ kinh tế đến văn hoá giữa các nước, các khu vực. “Con đường tơ lụa” xuyên Á qua núi cao và sa mạc, các tuyến hàng hải giữa các nước, các châu lục từ khi có thuyền buồm và la bàn,... có thể coi là những bằng chứng hiển nhiên đầu tiên của cái gọi là quá trình “giao lưu quốc tế” trên phạm vi toàn thế giới đó. Từ mấy thế kỉ trước, có thể nói Hội An, Phố Hiến,... đã là những “thành phố mở cửa” đầu tiên của nước ta...
Tuy nhiên, trong một vài thập kỉ trở lại đây, rõ ràng đã xuất hiện nhu cầu gọi tiến trình giao lưu quốc tế đó bằng một cái tên mới là “toàn cầu hoá” bởi những biểu hiện mang tính “bùng nổ” của tiến trình này: đó là sự xuất hiện “đại trà” của các “xa lộ thông tin” trên toàn thế giới, sự mở rộng nhanh chóng của quá trình “tự do hoá thương mại”, sự sáp nhập các công ty liên quốc gia hùng mạnh trong các lĩnh vực tin học, truyền thông, chế tạo xe hơi,... sự nhất thể hoá về kinh tế - tài chính ở các khu vực, v.v. diễn ra trong bối cảnh “hậu chiến tranh lạnh” và sự phát triển như vũ bão của kĩ thuật công nghệ hiện đại,...
Đặc biệt trên lĩnh vực văn hoá, quá trình “toàn cầu hoá” diễn ra thật sự sôi động với sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện truyền thông đại chúng và sự bùng nổ của các ngành công nghiệp văn hoá. [...]
Như mọi hiện tượng đều có hai mặt phải - trái, thuận nghịch, toàn cầu hoá, theo chữ dùng của tác giả R.J. Sa-mu-ơn-sân đã nhắc ở trên, là một “thanh gươm hai lưỡi”. “Một mặt nó là cỗ xe có động cơ mạnh làm tăng tốc độ phát triển kinh tế, mở ra kĩ thuật mới và tăng sức sống ở cả những nước giàu lẫn nước nghèo. Mặt khác, nó cũng là một tiến trình đầy tranh cãi tiến công vào chủ quyền quốc gia, làm xói mòn nền văn hoá và truyền thống địa phương, đe doạ sự ổn định kinh tế và xã hội.”.
Có thể nói, lĩnh vực văn hoá là lĩnh vực chịu tác động hai mặt, dễ nhận thấy nhất của quá trình toàn cầu hoá.
Trong bài “Giao lưu văn hoá và việc bảo vệ bản sắc dân tộc” đăng trên trang nhất, báo Nhân Dân (9 - 1 - 2000), nhà báo Thái Bảo có đưa ra một nhận xét: Trong cách hiểu hiện nay về giao lưu văn hoá còn có “điều chưa thật khách quan là những lệch lạc và tiêu cực trong giao lưu văn hoá quốc tế thường bị phê phán, trong khi đó những mặt tích cực của nó dường như ít được nhấn mạnh”.
Từ bao đời nay, nền văn hoá nước ta không chỉ là thành quả của hàng ngàn năm chiến đấu giữ nước và lao động sáng tạo dựng nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam mà còn là kết quả của các quá trình hấp thụ tinh hoa của nhiều nền văn hoá, văn minh thế giới. Sự gặp gỡ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội, giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin (Marx - Lenin) diễn ra trong thế kỉ XX ở nước ta đem lại những thay đổi cơ bản trong số phận lịch sử của dân tộc, là một biểu hiện đầy sức thuyết phục về mặt tích cực của sự giao lưu văn hoá nói trên. Trong bối cảnh có thể nói là có sự khủng hoảng lí luận ở phạm vi toàn cầu về con đường đi sắp tới của các dân tộc, sự kiện này là một điểm sáng đáng lưu ý.
Trong quá trình toàn cầu hoá, về mặt văn hoá, chúng ta cần thấy những thời cơ tốt để mở rộng cửa “đón nắng gió” bốn phương: tăng thêm tính hiện đại của văn hoá (để dứt bỏ những gì là cổ hủ, thủ cựu - hệ quả của một nền sản xuất nhỏ, phân tán), mở rộng và đào sâu thêm các giá trị nhân văn - dân chủ - quốc tế của văn hoá (để loại trừ những tàn dư của ý thức hệ phong kiến, gia trưởng), tiếp thu tính công nghiệp, tính khoa học, tính kỉ cương trong công việc và sinh hoạt giao tiếp cộng đồng (để dứt khoát chia tay với thói quen sống theo “lệ làng” coi thường “phép nước”, thói quen dềnh dang, thù tạc, không biết tiếc thời giờ,...), tiếp cận những thành tựu to lớn của công nghệ kĩ thuật mới trên các lĩnh vực truyền thông, truyền hình, in ấn, sản xuất băng đĩa âm thanh và hình ảnh, sản xuất các phương tiện nghe - nhìn, đổi mới và đa dạng hoá các loại hình nghệ thuật,...
Sức hấp dẫn của những loại hình hoạt động văn hoá, biểu diễn nghệ thuật, vui chơi giải trí cũng như lối sống tiện nghi, hiện đại từ các nước phát triển đối với nhiều người dân nước ta, nhất là đối với lớp trẻ, là điều dễ nhận thấy, có thể nói là đã và đang diễn ra phần nào độc lập với ý muốn chủ quan của chúng ta, đặc biệt là của những người đứng tuổi.
Ngoài mặt thuận của quá trình này, điều chúng ta cần hết sức quan tâm là mặt nghịch của nó, nhất là khi quá trình toàn cầu hoá diễn ra đồng thời với tiến trình mở cửa về kinh tế - văn hoá của nước ta, đồng thời với tiến trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ kế hoạch hoá - tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở đây, có thể nói mặt trái của toàn cầu hoá đã có “mảnh đất thích hợp” để nảy nở sinh sôi, là mặt trái của cơ chế thị trường tồn tại ở nước ta.
Chưa có thời kì nào trong lịch sử nước ta, sức lao động sáng tạo của mỗi con người lại có dịp được phát triển đầy hứa hẹn, xã hội trở nên cởi mở, năng động hơn. Nhưng bên cạnh mặt được rất cơ bản đó cũng có thể nói chưa bao giờ những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc lại phải chịu những tác động xói mòn mạnh mẽ, gay gắt như hiện nay. Nhiều tệ nạn xã hội phát triển như các đại dịch thời Trung cổ. Chỉ hơn mười năm qua, thời gian chưa đủ để một thế hệ sinh ra và trưởng thành, chúng ta có thể thấy, đặc biệt là ở các thành phố, các thị xã, thị tứ,... khá phổ biến một lối sống thực dụng, chạy theo tiện nghi vật chất, tôn thờ đồng tiền, sùng ngoại, coi nhẹ các giá trị lí tưởng, đạo đức của ông cha,... Nhiều sinh hoạt văn hoá, từ lễ hội đến biểu diễn nghệ thuật, bị nhuốm màu thương mại hóa. Các loại hình nghệ thuật, ca nhạc phương Tây ngày càng có nhiều thanh niên hâm mộ, tôn sùng, trong khi các loại hình nghệ thuật cổ truyền như chèo, tuồng, cải lương,... ngày càng thưa vắng người xem. Lớp trẻ lớn lên, nhiều em không còn biết hát dân ca, các bà mẹ không còn biết hát ru,... Thói đua đòi ăn chơi theo kiểu sống gấp “sống hôm nay không biết có ngày mai”, sống xa hoa, vô lối bằng đồng tiền phi lao động đã không còn là hiện tượng hiếm hoi.
Điều đáng nói trước tiên không phải là những hiện tượng tha hoá về nhân cách trong xã hội ta hôm nay. Điều đáng lo lắng hơn là xã hội chúng ta đã chưa tạo ra được một dư luận phê phán đủ mạnh để ngăn chặn những hiện tượng xuống cấp đạo đức như vậy và hậu quả là những hiện tượng “đồi phong bại tục” như vậy cứ ngang nhiên tồn tại, như “chọc tức”, như “trêu ngươi” mọi người! Sự bàng quan, thờ ơ theo kiểu “mũ ni che tai” này dù muốn hay không cũng là sự đồng loã với cái ác.
Bao trùm lên các hiện tượng tiêu cực ấy có thể nói là sự khủng hoảng lòng tin - con người không còn lí tưởng sống đúng đắn, mất định hướng giá trị. Không ít người trở thành tín đồ mù quáng của các dị giáo, của các thứ mê tín dị đoan đang có chiều hướng sinh sôi như nấm sau mưa (Những dãy xe máy, xe con biển trắng và cả biển xanh nối đuôi nhau hàng cây số trên đường vào xin lễ đền Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh là một minh chứng đáng buồn!).
Cùng với sự vận hành của cơ chế thị trường, của quá trình mở cửa, rõ ràng là toàn cầu hoá đang đem lại những thách thức gay gắt cho văn hoá dân tộc.
Toàn cầu hoá, như đã nói là một quá trình tất yếu, khách quan. Nó diễn ra ở mọi quốc gia trên Trái Đất này, không một dân tộc nào có thể bị cám dỗ bởi một thứ “chủ nghĩa biệt lập” nào đó mà đứng ra một bên, tránh được quá trình này động chạm tới mình. Điều quan trọng là chủ động đón nhận nó, có những đối sách thích hợp để phát huy mặt tích cực, hạn chế các tiêu cực mà nó có thể mang lại.
Như một cơ thể cường tráng có thể chống lại được mọi bệnh tật, dân tộc ta cần tự tìm trong chính mình những sức mạnh nội sinh để đứng vững trước các thử thách của toàn cầu hoá. [...]
Toàn cầu hoá chứa đựng thời cơ và những thách thức to lớn. Trong tiến trình lịch sử của mình, dân tộc ta đã tỏ rõ khả năng luôn biết đón nhận những thời cơ thuận lợi và vượt lên trên các thách thức để đi tới.
Thế kỉ XXI sắp tới. Thế giới sẽ chuyển động mạnh hơn bao giờ hết trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập. Chúng ta tin chắc rằng dân tộc Việt Nam sẽ khẳng định được chỗ đứng vững vàng của mình trong trào lưu đó với tất cả bản lĩnh sâu xa của nền văn hoá lâu đời, được tiếp thêm sức mạnh của thời đại, sức mạnh của lí tưởng độc lập dân tộc và công bằng xã hội.
(Theo Một góc nhìn của tri thức, tập một, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002)
Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống.
Văn bản "Toàn cầu hóa và bản sắc văn hóa dân tộc" thuộc kiểu văn bản , bàn về vấn đề trong mối tương quan với bản sắc văn hóa dân tộc, thông qua sự kết hợp giữa các phương thức biểu đạt là nghị luận và .
Toàn cầu hóa và bản sắc văn hóa dân tộc
Có thể đồng ý với nhận xét của nhà báo Rô-bớt J. Sa-mu-ơn-sân (Robert J. Samuelson) khi ông cho rằng: “Toàn cầu hoá là cách gọi mới cho một quá trình cũ.”
Trải qua mấy ngàn năm, thế giới đã phát triển chính là bằng con đường mở rộng quan hệ giao lưu về mọi mặt, từ kinh tế đến văn hoá giữa các nước, các khu vực. “Con đường tơ lụa” xuyên Á qua núi cao và sa mạc, các tuyến hàng hải giữa các nước, các châu lục từ khi có thuyền buồm và la bàn,... có thể coi là những bằng chứng hiển nhiên đầu tiên của cái gọi là quá trình “giao lưu quốc tế” trên phạm vi toàn thế giới đó. Từ mấy thế kỉ trước, có thể nói Hội An, Phố Hiến,... đã là những “thành phố mở cửa” đầu tiên của nước ta...
Tuy nhiên, trong một vài thập kỉ trở lại đây, rõ ràng đã xuất hiện nhu cầu gọi tiến trình giao lưu quốc tế đó bằng một cái tên mới là “toàn cầu hoá” bởi những biểu hiện mang tính “bùng nổ” của tiến trình này: đó là sự xuất hiện “đại trà” của các “xa lộ thông tin” trên toàn thế giới, sự mở rộng nhanh chóng của quá trình “tự do hoá thương mại”, sự sáp nhập các công ty liên quốc gia hùng mạnh trong các lĩnh vực tin học, truyền thông, chế tạo xe hơi,... sự nhất thể hoá về kinh tế - tài chính ở các khu vực, v.v. diễn ra trong bối cảnh “hậu chiến tranh lạnh” và sự phát triển như vũ bão của kĩ thuật công nghệ hiện đại,...
Đặc biệt trên lĩnh vực văn hoá, quá trình “toàn cầu hoá” diễn ra thật sự sôi động với sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện truyền thông đại chúng và sự bùng nổ của các ngành công nghiệp văn hoá. [...]
Như mọi hiện tượng đều có hai mặt phải - trái, thuận nghịch, toàn cầu hoá, theo chữ dùng của tác giả R.J. Sa-mu-ơn-sân đã nhắc ở trên, là một “thanh gươm hai lưỡi”. “Một mặt nó là cỗ xe có động cơ mạnh làm tăng tốc độ phát triển kinh tế, mở ra kĩ thuật mới và tăng sức sống ở cả những nước giàu lẫn nước nghèo. Mặt khác, nó cũng là một tiến trình đầy tranh cãi tiến công vào chủ quyền quốc gia, làm xói mòn nền văn hoá và truyền thống địa phương, đe doạ sự ổn định kinh tế và xã hội.”.
Có thể nói, lĩnh vực văn hoá là lĩnh vực chịu tác động hai mặt, dễ nhận thấy nhất của quá trình toàn cầu hoá.
Trong bài “Giao lưu văn hoá và việc bảo vệ bản sắc dân tộc” đăng trên trang nhất, báo Nhân Dân (9 - 1 - 2000), nhà báo Thái Bảo có đưa ra một nhận xét: Trong cách hiểu hiện nay về giao lưu văn hoá còn có “điều chưa thật khách quan là những lệch lạc và tiêu cực trong giao lưu văn hoá quốc tế thường bị phê phán, trong khi đó những mặt tích cực của nó dường như ít được nhấn mạnh”.
Từ bao đời nay, nền văn hoá nước ta không chỉ là thành quả của hàng ngàn năm chiến đấu giữ nước và lao động sáng tạo dựng nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam mà còn là kết quả của các quá trình hấp thụ tinh hoa của nhiều nền văn hoá, văn minh thế giới. Sự gặp gỡ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội, giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin (Marx - Lenin) diễn ra trong thế kỉ XX ở nước ta đem lại những thay đổi cơ bản trong số phận lịch sử của dân tộc, là một biểu hiện đầy sức thuyết phục về mặt tích cực của sự giao lưu văn hoá nói trên. Trong bối cảnh có thể nói là có sự khủng hoảng lí luận ở phạm vi toàn cầu về con đường đi sắp tới của các dân tộc, sự kiện này là một điểm sáng đáng lưu ý.
Trong quá trình toàn cầu hoá, về mặt văn hoá, chúng ta cần thấy những thời cơ tốt để mở rộng cửa “đón nắng gió” bốn phương: tăng thêm tính hiện đại của văn hoá (để dứt bỏ những gì là cổ hủ, thủ cựu - hệ quả của một nền sản xuất nhỏ, phân tán), mở rộng và đào sâu thêm các giá trị nhân văn - dân chủ - quốc tế của văn hoá (để loại trừ những tàn dư của ý thức hệ phong kiến, gia trưởng), tiếp thu tính công nghiệp, tính khoa học, tính kỉ cương trong công việc và sinh hoạt giao tiếp cộng đồng (để dứt khoát chia tay với thói quen sống theo “lệ làng” coi thường “phép nước”, thói quen dềnh dang, thù tạc, không biết tiếc thời giờ,...), tiếp cận những thành tựu to lớn của công nghệ kĩ thuật mới trên các lĩnh vực truyền thông, truyền hình, in ấn, sản xuất băng đĩa âm thanh và hình ảnh, sản xuất các phương tiện nghe - nhìn, đổi mới và đa dạng hoá các loại hình nghệ thuật,...
Sức hấp dẫn của những loại hình hoạt động văn hoá, biểu diễn nghệ thuật, vui chơi giải trí cũng như lối sống tiện nghi, hiện đại từ các nước phát triển đối với nhiều người dân nước ta, nhất là đối với lớp trẻ, là điều dễ nhận thấy, có thể nói là đã và đang diễn ra phần nào độc lập với ý muốn chủ quan của chúng ta, đặc biệt là của những người đứng tuổi.
Ngoài mặt thuận của quá trình này, điều chúng ta cần hết sức quan tâm là mặt nghịch của nó, nhất là khi quá trình toàn cầu hoá diễn ra đồng thời với tiến trình mở cửa về kinh tế - văn hoá của nước ta, đồng thời với tiến trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ kế hoạch hoá - tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở đây, có thể nói mặt trái của toàn cầu hoá đã có “mảnh đất thích hợp” để nảy nở sinh sôi, là mặt trái của cơ chế thị trường tồn tại ở nước ta.
Chưa có thời kì nào trong lịch sử nước ta, sức lao động sáng tạo của mỗi con người lại có dịp được phát triển đầy hứa hẹn, xã hội trở nên cởi mở, năng động hơn. Nhưng bên cạnh mặt được rất cơ bản đó cũng có thể nói chưa bao giờ những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc lại phải chịu những tác động xói mòn mạnh mẽ, gay gắt như hiện nay. Nhiều tệ nạn xã hội phát triển như các đại dịch thời Trung cổ. Chỉ hơn mười năm qua, thời gian chưa đủ để một thế hệ sinh ra và trưởng thành, chúng ta có thể thấy, đặc biệt là ở các thành phố, các thị xã, thị tứ,... khá phổ biến một lối sống thực dụng, chạy theo tiện nghi vật chất, tôn thờ đồng tiền, sùng ngoại, coi nhẹ các giá trị lí tưởng, đạo đức của ông cha,... Nhiều sinh hoạt văn hoá, từ lễ hội đến biểu diễn nghệ thuật, bị nhuốm màu thương mại hóa. Các loại hình nghệ thuật, ca nhạc phương Tây ngày càng có nhiều thanh niên hâm mộ, tôn sùng, trong khi các loại hình nghệ thuật cổ truyền như chèo, tuồng, cải lương,... ngày càng thưa vắng người xem. Lớp trẻ lớn lên, nhiều em không còn biết hát dân ca, các bà mẹ không còn biết hát ru,... Thói đua đòi ăn chơi theo kiểu sống gấp “sống hôm nay không biết có ngày mai”, sống xa hoa, vô lối bằng đồng tiền phi lao động đã không còn là hiện tượng hiếm hoi.
Điều đáng nói trước tiên không phải là những hiện tượng tha hoá về nhân cách trong xã hội ta hôm nay. Điều đáng lo lắng hơn là xã hội chúng ta đã chưa tạo ra được một dư luận phê phán đủ mạnh để ngăn chặn những hiện tượng xuống cấp đạo đức như vậy và hậu quả là những hiện tượng “đồi phong bại tục” như vậy cứ ngang nhiên tồn tại, như “chọc tức”, như “trêu ngươi” mọi người! Sự bàng quan, thờ ơ theo kiểu “mũ ni che tai” này dù muốn hay không cũng là sự đồng loã với cái ác.
Bao trùm lên các hiện tượng tiêu cực ấy có thể nói là sự khủng hoảng lòng tin - con người không còn lí tưởng sống đúng đắn, mất định hướng giá trị. Không ít người trở thành tín đồ mù quáng của các dị giáo, của các thứ mê tín dị đoan đang có chiều hướng sinh sôi như nấm sau mưa (Những dãy xe máy, xe con biển trắng và cả biển xanh nối đuôi nhau hàng cây số trên đường vào xin lễ đền Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh là một minh chứng đáng buồn!).
Cùng với sự vận hành của cơ chế thị trường, của quá trình mở cửa, rõ ràng là toàn cầu hoá đang đem lại những thách thức gay gắt cho văn hoá dân tộc.
Toàn cầu hoá, như đã nói là một quá trình tất yếu, khách quan. Nó diễn ra ở mọi quốc gia trên Trái Đất này, không một dân tộc nào có thể bị cám dỗ bởi một thứ “chủ nghĩa biệt lập” nào đó mà đứng ra một bên, tránh được quá trình này động chạm tới mình. Điều quan trọng là chủ động đón nhận nó, có những đối sách thích hợp để phát huy mặt tích cực, hạn chế các tiêu cực mà nó có thể mang lại.
Như một cơ thể cường tráng có thể chống lại được mọi bệnh tật, dân tộc ta cần tự tìm trong chính mình những sức mạnh nội sinh để đứng vững trước các thử thách của toàn cầu hoá. [...]
Toàn cầu hoá chứa đựng thời cơ và những thách thức to lớn. Trong tiến trình lịch sử của mình, dân tộc ta đã tỏ rõ khả năng luôn biết đón nhận những thời cơ thuận lợi và vượt lên trên các thách thức để đi tới.
Thế kỉ XXI sắp tới. Thế giới sẽ chuyển động mạnh hơn bao giờ hết trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập. Chúng ta tin chắc rằng dân tộc Việt Nam sẽ khẳng định được chỗ đứng vững vàng của mình trong trào lưu đó với tất cả bản lĩnh sâu xa của nền văn hoá lâu đời, được tiếp thêm sức mạnh của thời đại, sức mạnh của lí tưởng độc lập dân tộc và công bằng xã hội.
(Theo Một góc nhìn của tri thức, tập một, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002)
Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống.
Văn bản "Toàn cầu hóa và bản sắc văn hóa dân tộc" được sáng tác nhằm làm sáng tỏ vấn đề: Toàn cầu hóa có những và hạn chế; đòi hỏi chúng ta cần tiếp thu để hội nhập, phát triển mà vẫn giữ được văn hóa dân tộc.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Toàn cầu hóa và bản sắc văn hóa dân tộc
Có thể đồng ý với nhận xét của nhà báo Rô-bớt J. Sa-mu-ơn-sân (Robert J. Samuelson) khi ông cho rằng: “Toàn cầu hoá là cách gọi mới cho một quá trình cũ.”
Trải qua mấy ngàn năm, thế giới đã phát triển chính là bằng con đường mở rộng quan hệ giao lưu về mọi mặt, từ kinh tế đến văn hoá giữa các nước, các khu vực. “Con đường tơ lụa” xuyên Á qua núi cao và sa mạc, các tuyến hàng hải giữa các nước, các châu lục từ khi có thuyền buồm và la bàn,... có thể coi là những bằng chứng hiển nhiên đầu tiên của cái gọi là quá trình “giao lưu quốc tế” trên phạm vi toàn thế giới đó. Từ mấy thế kỉ trước, có thể nói Hội An, Phố Hiến,... đã là những “thành phố mở cửa” đầu tiên của nước ta...
Tuy nhiên, trong một vài thập kỉ trở lại đây, rõ ràng đã xuất hiện nhu cầu gọi tiến trình giao lưu quốc tế đó bằng một cái tên mới là “toàn cầu hoá” bởi những biểu hiện mang tính “bùng nổ” của tiến trình này: đó là sự xuất hiện “đại trà” của các “xa lộ thông tin” trên toàn thế giới, sự mở rộng nhanh chóng của quá trình “tự do hoá thương mại”, sự sáp nhập các công ty liên quốc gia hùng mạnh trong các lĩnh vực tin học, truyền thông, chế tạo xe hơi,... sự nhất thể hoá về kinh tế - tài chính ở các khu vực, v.v. diễn ra trong bối cảnh “hậu chiến tranh lạnh” và sự phát triển như vũ bão của kĩ thuật công nghệ hiện đại,...
Đặc biệt trên lĩnh vực văn hoá, quá trình “toàn cầu hoá” diễn ra thật sự sôi động với sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện truyền thông đại chúng và sự bùng nổ của các ngành công nghiệp văn hoá. [...]
Như mọi hiện tượng đều có hai mặt phải - trái, thuận nghịch, toàn cầu hoá, theo chữ dùng của tác giả R.J. Sa-mu-ơn-sân đã nhắc ở trên, là một “thanh gươm hai lưỡi”. “Một mặt nó là cỗ xe có động cơ mạnh làm tăng tốc độ phát triển kinh tế, mở ra kĩ thuật mới và tăng sức sống ở cả những nước giàu lẫn nước nghèo. Mặt khác, nó cũng là một tiến trình đầy tranh cãi tiến công vào chủ quyền quốc gia, làm xói mòn nền văn hoá và truyền thống địa phương, đe doạ sự ổn định kinh tế và xã hội.”.
Có thể nói, lĩnh vực văn hoá là lĩnh vực chịu tác động hai mặt, dễ nhận thấy nhất của quá trình toàn cầu hoá.
Trong bài “Giao lưu văn hoá và việc bảo vệ bản sắc dân tộc” đăng trên trang nhất, báo Nhân Dân (9 - 1 - 2000), nhà báo Thái Bảo có đưa ra một nhận xét: Trong cách hiểu hiện nay về giao lưu văn hoá còn có “điều chưa thật khách quan là những lệch lạc và tiêu cực trong giao lưu văn hoá quốc tế thường bị phê phán, trong khi đó những mặt tích cực của nó dường như ít được nhấn mạnh”.
Từ bao đời nay, nền văn hoá nước ta không chỉ là thành quả của hàng ngàn năm chiến đấu giữ nước và lao động sáng tạo dựng nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam mà còn là kết quả của các quá trình hấp thụ tinh hoa của nhiều nền văn hoá, văn minh thế giới. Sự gặp gỡ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội, giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin (Marx - Lenin) diễn ra trong thế kỉ XX ở nước ta đem lại những thay đổi cơ bản trong số phận lịch sử của dân tộc, là một biểu hiện đầy sức thuyết phục về mặt tích cực của sự giao lưu văn hoá nói trên. Trong bối cảnh có thể nói là có sự khủng hoảng lí luận ở phạm vi toàn cầu về con đường đi sắp tới của các dân tộc, sự kiện này là một điểm sáng đáng lưu ý.
Trong quá trình toàn cầu hoá, về mặt văn hoá, chúng ta cần thấy những thời cơ tốt để mở rộng cửa “đón nắng gió” bốn phương: tăng thêm tính hiện đại của văn hoá (để dứt bỏ những gì là cổ hủ, thủ cựu - hệ quả của một nền sản xuất nhỏ, phân tán), mở rộng và đào sâu thêm các giá trị nhân văn - dân chủ - quốc tế của văn hoá (để loại trừ những tàn dư của ý thức hệ phong kiến, gia trưởng), tiếp thu tính công nghiệp, tính khoa học, tính kỉ cương trong công việc và sinh hoạt giao tiếp cộng đồng (để dứt khoát chia tay với thói quen sống theo “lệ làng” coi thường “phép nước”, thói quen dềnh dang, thù tạc, không biết tiếc thời giờ,...), tiếp cận những thành tựu to lớn của công nghệ kĩ thuật mới trên các lĩnh vực truyền thông, truyền hình, in ấn, sản xuất băng đĩa âm thanh và hình ảnh, sản xuất các phương tiện nghe - nhìn, đổi mới và đa dạng hoá các loại hình nghệ thuật,...
Sức hấp dẫn của những loại hình hoạt động văn hoá, biểu diễn nghệ thuật, vui chơi giải trí cũng như lối sống tiện nghi, hiện đại từ các nước phát triển đối với nhiều người dân nước ta, nhất là đối với lớp trẻ, là điều dễ nhận thấy, có thể nói là đã và đang diễn ra phần nào độc lập với ý muốn chủ quan của chúng ta, đặc biệt là của những người đứng tuổi.
Ngoài mặt thuận của quá trình này, điều chúng ta cần hết sức quan tâm là mặt nghịch của nó, nhất là khi quá trình toàn cầu hoá diễn ra đồng thời với tiến trình mở cửa về kinh tế - văn hoá của nước ta, đồng thời với tiến trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ kế hoạch hoá - tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở đây, có thể nói mặt trái của toàn cầu hoá đã có “mảnh đất thích hợp” để nảy nở sinh sôi, là mặt trái của cơ chế thị trường tồn tại ở nước ta.
Chưa có thời kì nào trong lịch sử nước ta, sức lao động sáng tạo của mỗi con người lại có dịp được phát triển đầy hứa hẹn, xã hội trở nên cởi mở, năng động hơn. Nhưng bên cạnh mặt được rất cơ bản đó cũng có thể nói chưa bao giờ những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc lại phải chịu những tác động xói mòn mạnh mẽ, gay gắt như hiện nay. Nhiều tệ nạn xã hội phát triển như các đại dịch thời Trung cổ. Chỉ hơn mười năm qua, thời gian chưa đủ để một thế hệ sinh ra và trưởng thành, chúng ta có thể thấy, đặc biệt là ở các thành phố, các thị xã, thị tứ,... khá phổ biến một lối sống thực dụng, chạy theo tiện nghi vật chất, tôn thờ đồng tiền, sùng ngoại, coi nhẹ các giá trị lí tưởng, đạo đức của ông cha,... Nhiều sinh hoạt văn hoá, từ lễ hội đến biểu diễn nghệ thuật, bị nhuốm màu thương mại hóa. Các loại hình nghệ thuật, ca nhạc phương Tây ngày càng có nhiều thanh niên hâm mộ, tôn sùng, trong khi các loại hình nghệ thuật cổ truyền như chèo, tuồng, cải lương,... ngày càng thưa vắng người xem. Lớp trẻ lớn lên, nhiều em không còn biết hát dân ca, các bà mẹ không còn biết hát ru,... Thói đua đòi ăn chơi theo kiểu sống gấp “sống hôm nay không biết có ngày mai”, sống xa hoa, vô lối bằng đồng tiền phi lao động đã không còn là hiện tượng hiếm hoi.
Điều đáng nói trước tiên không phải là những hiện tượng tha hoá về nhân cách trong xã hội ta hôm nay. Điều đáng lo lắng hơn là xã hội chúng ta đã chưa tạo ra được một dư luận phê phán đủ mạnh để ngăn chặn những hiện tượng xuống cấp đạo đức như vậy và hậu quả là những hiện tượng “đồi phong bại tục” như vậy cứ ngang nhiên tồn tại, như “chọc tức”, như “trêu ngươi” mọi người! Sự bàng quan, thờ ơ theo kiểu “mũ ni che tai” này dù muốn hay không cũng là sự đồng loã với cái ác.
Bao trùm lên các hiện tượng tiêu cực ấy có thể nói là sự khủng hoảng lòng tin - con người không còn lí tưởng sống đúng đắn, mất định hướng giá trị. Không ít người trở thành tín đồ mù quáng của các dị giáo, của các thứ mê tín dị đoan đang có chiều hướng sinh sôi như nấm sau mưa (Những dãy xe máy, xe con biển trắng và cả biển xanh nối đuôi nhau hàng cây số trên đường vào xin lễ đền Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh là một minh chứng đáng buồn!).
Cùng với sự vận hành của cơ chế thị trường, của quá trình mở cửa, rõ ràng là toàn cầu hoá đang đem lại những thách thức gay gắt cho văn hoá dân tộc.
Toàn cầu hoá, như đã nói là một quá trình tất yếu, khách quan. Nó diễn ra ở mọi quốc gia trên Trái Đất này, không một dân tộc nào có thể bị cám dỗ bởi một thứ “chủ nghĩa biệt lập” nào đó mà đứng ra một bên, tránh được quá trình này động chạm tới mình. Điều quan trọng là chủ động đón nhận nó, có những đối sách thích hợp để phát huy mặt tích cực, hạn chế các tiêu cực mà nó có thể mang lại.
Như một cơ thể cường tráng có thể chống lại được mọi bệnh tật, dân tộc ta cần tự tìm trong chính mình những sức mạnh nội sinh để đứng vững trước các thử thách của toàn cầu hoá. [...]
Toàn cầu hoá chứa đựng thời cơ và những thách thức to lớn. Trong tiến trình lịch sử của mình, dân tộc ta đã tỏ rõ khả năng luôn biết đón nhận những thời cơ thuận lợi và vượt lên trên các thách thức để đi tới.
Thế kỉ XXI sắp tới. Thế giới sẽ chuyển động mạnh hơn bao giờ hết trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập. Chúng ta tin chắc rằng dân tộc Việt Nam sẽ khẳng định được chỗ đứng vững vàng của mình trong trào lưu đó với tất cả bản lĩnh sâu xa của nền văn hoá lâu đời, được tiếp thêm sức mạnh của thời đại, sức mạnh của lí tưởng độc lập dân tộc và công bằng xã hội.
(Theo Một góc nhìn của tri thức, tập một, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002)
Nhận định nào dưới đây là đúng khi nói về nhan đề của văn bản "Toàn cầu hóa và bản sắc văn hóa dân tộc"?
Toàn cầu hóa và bản sắc văn hóa dân tộc
Có thể đồng ý với nhận xét của nhà báo Rô-bớt J. Sa-mu-ơn-sân (Robert J. Samuelson) khi ông cho rằng: “Toàn cầu hoá là cách gọi mới cho một quá trình cũ.”
Trải qua mấy ngàn năm, thế giới đã phát triển chính là bằng con đường mở rộng quan hệ giao lưu về mọi mặt, từ kinh tế đến văn hoá giữa các nước, các khu vực. “Con đường tơ lụa” xuyên Á qua núi cao và sa mạc, các tuyến hàng hải giữa các nước, các châu lục từ khi có thuyền buồm và la bàn,... có thể coi là những bằng chứng hiển nhiên đầu tiên của cái gọi là quá trình “giao lưu quốc tế” trên phạm vi toàn thế giới đó. Từ mấy thế kỉ trước, có thể nói Hội An, Phố Hiến,... đã là những “thành phố mở cửa” đầu tiên của nước ta...
Tuy nhiên, trong một vài thập kỉ trở lại đây, rõ ràng đã xuất hiện nhu cầu gọi tiến trình giao lưu quốc tế đó bằng một cái tên mới là “toàn cầu hoá” bởi những biểu hiện mang tính “bùng nổ” của tiến trình này: đó là sự xuất hiện “đại trà” của các “xa lộ thông tin” trên toàn thế giới, sự mở rộng nhanh chóng của quá trình “tự do hoá thương mại”, sự sáp nhập các công ty liên quốc gia hùng mạnh trong các lĩnh vực tin học, truyền thông, chế tạo xe hơi,... sự nhất thể hoá về kinh tế - tài chính ở các khu vực, v.v. diễn ra trong bối cảnh “hậu chiến tranh lạnh” và sự phát triển như vũ bão của kĩ thuật công nghệ hiện đại,...
Đặc biệt trên lĩnh vực văn hoá, quá trình “toàn cầu hoá” diễn ra thật sự sôi động với sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện truyền thông đại chúng và sự bùng nổ của các ngành công nghiệp văn hoá. [...]
Như mọi hiện tượng đều có hai mặt phải - trái, thuận nghịch, toàn cầu hoá, theo chữ dùng của tác giả R.J. Sa-mu-ơn-sân đã nhắc ở trên, là một “thanh gươm hai lưỡi”. “Một mặt nó là cỗ xe có động cơ mạnh làm tăng tốc độ phát triển kinh tế, mở ra kĩ thuật mới và tăng sức sống ở cả những nước giàu lẫn nước nghèo. Mặt khác, nó cũng là một tiến trình đầy tranh cãi tiến công vào chủ quyền quốc gia, làm xói mòn nền văn hoá và truyền thống địa phương, đe doạ sự ổn định kinh tế và xã hội.”.
Có thể nói, lĩnh vực văn hoá là lĩnh vực chịu tác động hai mặt, dễ nhận thấy nhất của quá trình toàn cầu hoá.
Trong bài “Giao lưu văn hoá và việc bảo vệ bản sắc dân tộc” đăng trên trang nhất, báo Nhân Dân (9 - 1 - 2000), nhà báo Thái Bảo có đưa ra một nhận xét: Trong cách hiểu hiện nay về giao lưu văn hoá còn có “điều chưa thật khách quan là những lệch lạc và tiêu cực trong giao lưu văn hoá quốc tế thường bị phê phán, trong khi đó những mặt tích cực của nó dường như ít được nhấn mạnh”.
Từ bao đời nay, nền văn hoá nước ta không chỉ là thành quả của hàng ngàn năm chiến đấu giữ nước và lao động sáng tạo dựng nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam mà còn là kết quả của các quá trình hấp thụ tinh hoa của nhiều nền văn hoá, văn minh thế giới. Sự gặp gỡ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội, giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin (Marx - Lenin) diễn ra trong thế kỉ XX ở nước ta đem lại những thay đổi cơ bản trong số phận lịch sử của dân tộc, là một biểu hiện đầy sức thuyết phục về mặt tích cực của sự giao lưu văn hoá nói trên. Trong bối cảnh có thể nói là có sự khủng hoảng lí luận ở phạm vi toàn cầu về con đường đi sắp tới của các dân tộc, sự kiện này là một điểm sáng đáng lưu ý.
Trong quá trình toàn cầu hoá, về mặt văn hoá, chúng ta cần thấy những thời cơ tốt để mở rộng cửa “đón nắng gió” bốn phương: tăng thêm tính hiện đại của văn hoá (để dứt bỏ những gì là cổ hủ, thủ cựu - hệ quả của một nền sản xuất nhỏ, phân tán), mở rộng và đào sâu thêm các giá trị nhân văn - dân chủ - quốc tế của văn hoá (để loại trừ những tàn dư của ý thức hệ phong kiến, gia trưởng), tiếp thu tính công nghiệp, tính khoa học, tính kỉ cương trong công việc và sinh hoạt giao tiếp cộng đồng (để dứt khoát chia tay với thói quen sống theo “lệ làng” coi thường “phép nước”, thói quen dềnh dang, thù tạc, không biết tiếc thời giờ,...), tiếp cận những thành tựu to lớn của công nghệ kĩ thuật mới trên các lĩnh vực truyền thông, truyền hình, in ấn, sản xuất băng đĩa âm thanh và hình ảnh, sản xuất các phương tiện nghe - nhìn, đổi mới và đa dạng hoá các loại hình nghệ thuật,...
Sức hấp dẫn của những loại hình hoạt động văn hoá, biểu diễn nghệ thuật, vui chơi giải trí cũng như lối sống tiện nghi, hiện đại từ các nước phát triển đối với nhiều người dân nước ta, nhất là đối với lớp trẻ, là điều dễ nhận thấy, có thể nói là đã và đang diễn ra phần nào độc lập với ý muốn chủ quan của chúng ta, đặc biệt là của những người đứng tuổi.
Ngoài mặt thuận của quá trình này, điều chúng ta cần hết sức quan tâm là mặt nghịch của nó, nhất là khi quá trình toàn cầu hoá diễn ra đồng thời với tiến trình mở cửa về kinh tế - văn hoá của nước ta, đồng thời với tiến trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ kế hoạch hoá - tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở đây, có thể nói mặt trái của toàn cầu hoá đã có “mảnh đất thích hợp” để nảy nở sinh sôi, là mặt trái của cơ chế thị trường tồn tại ở nước ta.
Chưa có thời kì nào trong lịch sử nước ta, sức lao động sáng tạo của mỗi con người lại có dịp được phát triển đầy hứa hẹn, xã hội trở nên cởi mở, năng động hơn. Nhưng bên cạnh mặt được rất cơ bản đó cũng có thể nói chưa bao giờ những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc lại phải chịu những tác động xói mòn mạnh mẽ, gay gắt như hiện nay. Nhiều tệ nạn xã hội phát triển như các đại dịch thời Trung cổ. Chỉ hơn mười năm qua, thời gian chưa đủ để một thế hệ sinh ra và trưởng thành, chúng ta có thể thấy, đặc biệt là ở các thành phố, các thị xã, thị tứ,... khá phổ biến một lối sống thực dụng, chạy theo tiện nghi vật chất, tôn thờ đồng tiền, sùng ngoại, coi nhẹ các giá trị lí tưởng, đạo đức của ông cha,... Nhiều sinh hoạt văn hoá, từ lễ hội đến biểu diễn nghệ thuật, bị nhuốm màu thương mại hóa. Các loại hình nghệ thuật, ca nhạc phương Tây ngày càng có nhiều thanh niên hâm mộ, tôn sùng, trong khi các loại hình nghệ thuật cổ truyền như chèo, tuồng, cải lương,... ngày càng thưa vắng người xem. Lớp trẻ lớn lên, nhiều em không còn biết hát dân ca, các bà mẹ không còn biết hát ru,... Thói đua đòi ăn chơi theo kiểu sống gấp “sống hôm nay không biết có ngày mai”, sống xa hoa, vô lối bằng đồng tiền phi lao động đã không còn là hiện tượng hiếm hoi.
Điều đáng nói trước tiên không phải là những hiện tượng tha hoá về nhân cách trong xã hội ta hôm nay. Điều đáng lo lắng hơn là xã hội chúng ta đã chưa tạo ra được một dư luận phê phán đủ mạnh để ngăn chặn những hiện tượng xuống cấp đạo đức như vậy và hậu quả là những hiện tượng “đồi phong bại tục” như vậy cứ ngang nhiên tồn tại, như “chọc tức”, như “trêu ngươi” mọi người! Sự bàng quan, thờ ơ theo kiểu “mũ ni che tai” này dù muốn hay không cũng là sự đồng loã với cái ác.
Bao trùm lên các hiện tượng tiêu cực ấy có thể nói là sự khủng hoảng lòng tin - con người không còn lí tưởng sống đúng đắn, mất định hướng giá trị. Không ít người trở thành tín đồ mù quáng của các dị giáo, của các thứ mê tín dị đoan đang có chiều hướng sinh sôi như nấm sau mưa (Những dãy xe máy, xe con biển trắng và cả biển xanh nối đuôi nhau hàng cây số trên đường vào xin lễ đền Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh là một minh chứng đáng buồn!).
Cùng với sự vận hành của cơ chế thị trường, của quá trình mở cửa, rõ ràng là toàn cầu hoá đang đem lại những thách thức gay gắt cho văn hoá dân tộc.
Toàn cầu hoá, như đã nói là một quá trình tất yếu, khách quan. Nó diễn ra ở mọi quốc gia trên Trái Đất này, không một dân tộc nào có thể bị cám dỗ bởi một thứ “chủ nghĩa biệt lập” nào đó mà đứng ra một bên, tránh được quá trình này động chạm tới mình. Điều quan trọng là chủ động đón nhận nó, có những đối sách thích hợp để phát huy mặt tích cực, hạn chế các tiêu cực mà nó có thể mang lại.
Như một cơ thể cường tráng có thể chống lại được mọi bệnh tật, dân tộc ta cần tự tìm trong chính mình những sức mạnh nội sinh để đứng vững trước các thử thách của toàn cầu hoá. [...]
Toàn cầu hoá chứa đựng thời cơ và những thách thức to lớn. Trong tiến trình lịch sử của mình, dân tộc ta đã tỏ rõ khả năng luôn biết đón nhận những thời cơ thuận lợi và vượt lên trên các thách thức để đi tới.
Thế kỉ XXI sắp tới. Thế giới sẽ chuyển động mạnh hơn bao giờ hết trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập. Chúng ta tin chắc rằng dân tộc Việt Nam sẽ khẳng định được chỗ đứng vững vàng của mình trong trào lưu đó với tất cả bản lĩnh sâu xa của nền văn hoá lâu đời, được tiếp thêm sức mạnh của thời đại, sức mạnh của lí tưởng độc lập dân tộc và công bằng xã hội.
(Theo Một góc nhìn của tri thức, tập một, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002)
Luận đề của tác phẩm được thể hiện ở yếu tố nào dưới đây?
Toàn cầu hóa và bản sắc văn hóa dân tộc
Có thể đồng ý với nhận xét của nhà báo Rô-bớt J. Sa-mu-ơn-sân (Robert J. Samuelson) khi ông cho rằng: “Toàn cầu hoá là cách gọi mới cho một quá trình cũ.”
Trải qua mấy ngàn năm, thế giới đã phát triển chính là bằng con đường mở rộng quan hệ giao lưu về mọi mặt, từ kinh tế đến văn hoá giữa các nước, các khu vực. “Con đường tơ lụa” xuyên Á qua núi cao và sa mạc, các tuyến hàng hải giữa các nước, các châu lục từ khi có thuyền buồm và la bàn,... có thể coi là những bằng chứng hiển nhiên đầu tiên của cái gọi là quá trình “giao lưu quốc tế” trên phạm vi toàn thế giới đó. Từ mấy thế kỉ trước, có thể nói Hội An, Phố Hiến,... đã là những “thành phố mở cửa” đầu tiên của nước ta...
Tuy nhiên, trong một vài thập kỉ trở lại đây, rõ ràng đã xuất hiện nhu cầu gọi tiến trình giao lưu quốc tế đó bằng một cái tên mới là “toàn cầu hoá” bởi những biểu hiện mang tính “bùng nổ” của tiến trình này: đó là sự xuất hiện “đại trà” của các “xa lộ thông tin” trên toàn thế giới, sự mở rộng nhanh chóng của quá trình “tự do hoá thương mại”, sự sáp nhập các công ty liên quốc gia hùng mạnh trong các lĩnh vực tin học, truyền thông, chế tạo xe hơi,... sự nhất thể hoá về kinh tế - tài chính ở các khu vực, v.v. diễn ra trong bối cảnh “hậu chiến tranh lạnh” và sự phát triển như vũ bão của kĩ thuật công nghệ hiện đại,...
Đặc biệt trên lĩnh vực văn hoá, quá trình “toàn cầu hoá” diễn ra thật sự sôi động với sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện truyền thông đại chúng và sự bùng nổ của các ngành công nghiệp văn hoá. [...]
Như mọi hiện tượng đều có hai mặt phải - trái, thuận nghịch, toàn cầu hoá, theo chữ dùng của tác giả R.J. Sa-mu-ơn-sân đã nhắc ở trên, là một “thanh gươm hai lưỡi”. “Một mặt nó là cỗ xe có động cơ mạnh làm tăng tốc độ phát triển kinh tế, mở ra kĩ thuật mới và tăng sức sống ở cả những nước giàu lẫn nước nghèo. Mặt khác, nó cũng là một tiến trình đầy tranh cãi tiến công vào chủ quyền quốc gia, làm xói mòn nền văn hoá và truyền thống địa phương, đe doạ sự ổn định kinh tế và xã hội.”.
Có thể nói, lĩnh vực văn hoá là lĩnh vực chịu tác động hai mặt, dễ nhận thấy nhất của quá trình toàn cầu hoá.
Trong bài “Giao lưu văn hoá và việc bảo vệ bản sắc dân tộc” đăng trên trang nhất, báo Nhân Dân (9 - 1 - 2000), nhà báo Thái Bảo có đưa ra một nhận xét: Trong cách hiểu hiện nay về giao lưu văn hoá còn có “điều chưa thật khách quan là những lệch lạc và tiêu cực trong giao lưu văn hoá quốc tế thường bị phê phán, trong khi đó những mặt tích cực của nó dường như ít được nhấn mạnh”.
Từ bao đời nay, nền văn hoá nước ta không chỉ là thành quả của hàng ngàn năm chiến đấu giữ nước và lao động sáng tạo dựng nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam mà còn là kết quả của các quá trình hấp thụ tinh hoa của nhiều nền văn hoá, văn minh thế giới. Sự gặp gỡ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội, giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin (Marx - Lenin) diễn ra trong thế kỉ XX ở nước ta đem lại những thay đổi cơ bản trong số phận lịch sử của dân tộc, là một biểu hiện đầy sức thuyết phục về mặt tích cực của sự giao lưu văn hoá nói trên. Trong bối cảnh có thể nói là có sự khủng hoảng lí luận ở phạm vi toàn cầu về con đường đi sắp tới của các dân tộc, sự kiện này là một điểm sáng đáng lưu ý.
Trong quá trình toàn cầu hoá, về mặt văn hoá, chúng ta cần thấy những thời cơ tốt để mở rộng cửa “đón nắng gió” bốn phương: tăng thêm tính hiện đại của văn hoá (để dứt bỏ những gì là cổ hủ, thủ cựu - hệ quả của một nền sản xuất nhỏ, phân tán), mở rộng và đào sâu thêm các giá trị nhân văn - dân chủ - quốc tế của văn hoá (để loại trừ những tàn dư của ý thức hệ phong kiến, gia trưởng), tiếp thu tính công nghiệp, tính khoa học, tính kỉ cương trong công việc và sinh hoạt giao tiếp cộng đồng (để dứt khoát chia tay với thói quen sống theo “lệ làng” coi thường “phép nước”, thói quen dềnh dang, thù tạc, không biết tiếc thời giờ,...), tiếp cận những thành tựu to lớn của công nghệ kĩ thuật mới trên các lĩnh vực truyền thông, truyền hình, in ấn, sản xuất băng đĩa âm thanh và hình ảnh, sản xuất các phương tiện nghe - nhìn, đổi mới và đa dạng hoá các loại hình nghệ thuật,...
Sức hấp dẫn của những loại hình hoạt động văn hoá, biểu diễn nghệ thuật, vui chơi giải trí cũng như lối sống tiện nghi, hiện đại từ các nước phát triển đối với nhiều người dân nước ta, nhất là đối với lớp trẻ, là điều dễ nhận thấy, có thể nói là đã và đang diễn ra phần nào độc lập với ý muốn chủ quan của chúng ta, đặc biệt là của những người đứng tuổi.
Ngoài mặt thuận của quá trình này, điều chúng ta cần hết sức quan tâm là mặt nghịch của nó, nhất là khi quá trình toàn cầu hoá diễn ra đồng thời với tiến trình mở cửa về kinh tế - văn hoá của nước ta, đồng thời với tiến trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ kế hoạch hoá - tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở đây, có thể nói mặt trái của toàn cầu hoá đã có “mảnh đất thích hợp” để nảy nở sinh sôi, là mặt trái của cơ chế thị trường tồn tại ở nước ta.
Chưa có thời kì nào trong lịch sử nước ta, sức lao động sáng tạo của mỗi con người lại có dịp được phát triển đầy hứa hẹn, xã hội trở nên cởi mở, năng động hơn. Nhưng bên cạnh mặt được rất cơ bản đó cũng có thể nói chưa bao giờ những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc lại phải chịu những tác động xói mòn mạnh mẽ, gay gắt như hiện nay. Nhiều tệ nạn xã hội phát triển như các đại dịch thời Trung cổ. Chỉ hơn mười năm qua, thời gian chưa đủ để một thế hệ sinh ra và trưởng thành, chúng ta có thể thấy, đặc biệt là ở các thành phố, các thị xã, thị tứ,... khá phổ biến một lối sống thực dụng, chạy theo tiện nghi vật chất, tôn thờ đồng tiền, sùng ngoại, coi nhẹ các giá trị lí tưởng, đạo đức của ông cha,... Nhiều sinh hoạt văn hoá, từ lễ hội đến biểu diễn nghệ thuật, bị nhuốm màu thương mại hóa. Các loại hình nghệ thuật, ca nhạc phương Tây ngày càng có nhiều thanh niên hâm mộ, tôn sùng, trong khi các loại hình nghệ thuật cổ truyền như chèo, tuồng, cải lương,... ngày càng thưa vắng người xem. Lớp trẻ lớn lên, nhiều em không còn biết hát dân ca, các bà mẹ không còn biết hát ru,... Thói đua đòi ăn chơi theo kiểu sống gấp “sống hôm nay không biết có ngày mai”, sống xa hoa, vô lối bằng đồng tiền phi lao động đã không còn là hiện tượng hiếm hoi.
Điều đáng nói trước tiên không phải là những hiện tượng tha hoá về nhân cách trong xã hội ta hôm nay. Điều đáng lo lắng hơn là xã hội chúng ta đã chưa tạo ra được một dư luận phê phán đủ mạnh để ngăn chặn những hiện tượng xuống cấp đạo đức như vậy và hậu quả là những hiện tượng “đồi phong bại tục” như vậy cứ ngang nhiên tồn tại, như “chọc tức”, như “trêu ngươi” mọi người! Sự bàng quan, thờ ơ theo kiểu “mũ ni che tai” này dù muốn hay không cũng là sự đồng loã với cái ác.
Bao trùm lên các hiện tượng tiêu cực ấy có thể nói là sự khủng hoảng lòng tin - con người không còn lí tưởng sống đúng đắn, mất định hướng giá trị. Không ít người trở thành tín đồ mù quáng của các dị giáo, của các thứ mê tín dị đoan đang có chiều hướng sinh sôi như nấm sau mưa (Những dãy xe máy, xe con biển trắng và cả biển xanh nối đuôi nhau hàng cây số trên đường vào xin lễ đền Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh là một minh chứng đáng buồn!).
Cùng với sự vận hành của cơ chế thị trường, của quá trình mở cửa, rõ ràng là toàn cầu hoá đang đem lại những thách thức gay gắt cho văn hoá dân tộc.
Toàn cầu hoá, như đã nói là một quá trình tất yếu, khách quan. Nó diễn ra ở mọi quốc gia trên Trái Đất này, không một dân tộc nào có thể bị cám dỗ bởi một thứ “chủ nghĩa biệt lập” nào đó mà đứng ra một bên, tránh được quá trình này động chạm tới mình. Điều quan trọng là chủ động đón nhận nó, có những đối sách thích hợp để phát huy mặt tích cực, hạn chế các tiêu cực mà nó có thể mang lại.
Như một cơ thể cường tráng có thể chống lại được mọi bệnh tật, dân tộc ta cần tự tìm trong chính mình những sức mạnh nội sinh để đứng vững trước các thử thách của toàn cầu hoá. [...]
Toàn cầu hoá chứa đựng thời cơ và những thách thức to lớn. Trong tiến trình lịch sử của mình, dân tộc ta đã tỏ rõ khả năng luôn biết đón nhận những thời cơ thuận lợi và vượt lên trên các thách thức để đi tới.
Thế kỉ XXI sắp tới. Thế giới sẽ chuyển động mạnh hơn bao giờ hết trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập. Chúng ta tin chắc rằng dân tộc Việt Nam sẽ khẳng định được chỗ đứng vững vàng của mình trong trào lưu đó với tất cả bản lĩnh sâu xa của nền văn hoá lâu đời, được tiếp thêm sức mạnh của thời đại, sức mạnh của lí tưởng độc lập dân tộc và công bằng xã hội.
(Theo Một góc nhìn của tri thức, tập một, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002)
Trong văn bản "Toàn cầu hóa và bản sắc văn hóa dân tộc", tác giả đã không đưa ra luận điểm nào dưới đây?
Toàn cầu hóa và bản sắc văn hóa dân tộc
Có thể đồng ý với nhận xét của nhà báo Rô-bớt J. Sa-mu-ơn-sân (Robert J. Samuelson) khi ông cho rằng: “Toàn cầu hoá là cách gọi mới cho một quá trình cũ.”
Trải qua mấy ngàn năm, thế giới đã phát triển chính là bằng con đường mở rộng quan hệ giao lưu về mọi mặt, từ kinh tế đến văn hoá giữa các nước, các khu vực. “Con đường tơ lụa” xuyên Á qua núi cao và sa mạc, các tuyến hàng hải giữa các nước, các châu lục từ khi có thuyền buồm và la bàn,... có thể coi là những bằng chứng hiển nhiên đầu tiên của cái gọi là quá trình “giao lưu quốc tế” trên phạm vi toàn thế giới đó. Từ mấy thế kỉ trước, có thể nói Hội An, Phố Hiến,... đã là những “thành phố mở cửa” đầu tiên của nước ta...
Tuy nhiên, trong một vài thập kỉ trở lại đây, rõ ràng đã xuất hiện nhu cầu gọi tiến trình giao lưu quốc tế đó bằng một cái tên mới là “toàn cầu hoá” bởi những biểu hiện mang tính “bùng nổ” của tiến trình này: đó là sự xuất hiện “đại trà” của các “xa lộ thông tin” trên toàn thế giới, sự mở rộng nhanh chóng của quá trình “tự do hoá thương mại”, sự sáp nhập các công ty liên quốc gia hùng mạnh trong các lĩnh vực tin học, truyền thông, chế tạo xe hơi,... sự nhất thể hoá về kinh tế - tài chính ở các khu vực, v.v. diễn ra trong bối cảnh “hậu chiến tranh lạnh” và sự phát triển như vũ bão của kĩ thuật công nghệ hiện đại,...
Đặc biệt trên lĩnh vực văn hoá, quá trình “toàn cầu hoá” diễn ra thật sự sôi động với sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện truyền thông đại chúng và sự bùng nổ của các ngành công nghiệp văn hoá. [...]
Như mọi hiện tượng đều có hai mặt phải - trái, thuận nghịch, toàn cầu hoá, theo chữ dùng của tác giả R.J. Sa-mu-ơn-sân đã nhắc ở trên, là một “thanh gươm hai lưỡi”. “Một mặt nó là cỗ xe có động cơ mạnh làm tăng tốc độ phát triển kinh tế, mở ra kĩ thuật mới và tăng sức sống ở cả những nước giàu lẫn nước nghèo. Mặt khác, nó cũng là một tiến trình đầy tranh cãi tiến công vào chủ quyền quốc gia, làm xói mòn nền văn hoá và truyền thống địa phương, đe doạ sự ổn định kinh tế và xã hội.”.
Có thể nói, lĩnh vực văn hoá là lĩnh vực chịu tác động hai mặt, dễ nhận thấy nhất của quá trình toàn cầu hoá.
Trong bài “Giao lưu văn hoá và việc bảo vệ bản sắc dân tộc” đăng trên trang nhất, báo Nhân Dân (9 - 1 - 2000), nhà báo Thái Bảo có đưa ra một nhận xét: Trong cách hiểu hiện nay về giao lưu văn hoá còn có “điều chưa thật khách quan là những lệch lạc và tiêu cực trong giao lưu văn hoá quốc tế thường bị phê phán, trong khi đó những mặt tích cực của nó dường như ít được nhấn mạnh”.
Từ bao đời nay, nền văn hoá nước ta không chỉ là thành quả của hàng ngàn năm chiến đấu giữ nước và lao động sáng tạo dựng nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam mà còn là kết quả của các quá trình hấp thụ tinh hoa của nhiều nền văn hoá, văn minh thế giới. Sự gặp gỡ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội, giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin (Marx - Lenin) diễn ra trong thế kỉ XX ở nước ta đem lại những thay đổi cơ bản trong số phận lịch sử của dân tộc, là một biểu hiện đầy sức thuyết phục về mặt tích cực của sự giao lưu văn hoá nói trên. Trong bối cảnh có thể nói là có sự khủng hoảng lí luận ở phạm vi toàn cầu về con đường đi sắp tới của các dân tộc, sự kiện này là một điểm sáng đáng lưu ý.
Trong quá trình toàn cầu hoá, về mặt văn hoá, chúng ta cần thấy những thời cơ tốt để mở rộng cửa “đón nắng gió” bốn phương: tăng thêm tính hiện đại của văn hoá (để dứt bỏ những gì là cổ hủ, thủ cựu - hệ quả của một nền sản xuất nhỏ, phân tán), mở rộng và đào sâu thêm các giá trị nhân văn - dân chủ - quốc tế của văn hoá (để loại trừ những tàn dư của ý thức hệ phong kiến, gia trưởng), tiếp thu tính công nghiệp, tính khoa học, tính kỉ cương trong công việc và sinh hoạt giao tiếp cộng đồng (để dứt khoát chia tay với thói quen sống theo “lệ làng” coi thường “phép nước”, thói quen dềnh dang, thù tạc, không biết tiếc thời giờ,...), tiếp cận những thành tựu to lớn của công nghệ kĩ thuật mới trên các lĩnh vực truyền thông, truyền hình, in ấn, sản xuất băng đĩa âm thanh và hình ảnh, sản xuất các phương tiện nghe - nhìn, đổi mới và đa dạng hoá các loại hình nghệ thuật,...
Sức hấp dẫn của những loại hình hoạt động văn hoá, biểu diễn nghệ thuật, vui chơi giải trí cũng như lối sống tiện nghi, hiện đại từ các nước phát triển đối với nhiều người dân nước ta, nhất là đối với lớp trẻ, là điều dễ nhận thấy, có thể nói là đã và đang diễn ra phần nào độc lập với ý muốn chủ quan của chúng ta, đặc biệt là của những người đứng tuổi.
Ngoài mặt thuận của quá trình này, điều chúng ta cần hết sức quan tâm là mặt nghịch của nó, nhất là khi quá trình toàn cầu hoá diễn ra đồng thời với tiến trình mở cửa về kinh tế - văn hoá của nước ta, đồng thời với tiến trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ kế hoạch hoá - tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở đây, có thể nói mặt trái của toàn cầu hoá đã có “mảnh đất thích hợp” để nảy nở sinh sôi, là mặt trái của cơ chế thị trường tồn tại ở nước ta.
Chưa có thời kì nào trong lịch sử nước ta, sức lao động sáng tạo của mỗi con người lại có dịp được phát triển đầy hứa hẹn, xã hội trở nên cởi mở, năng động hơn. Nhưng bên cạnh mặt được rất cơ bản đó cũng có thể nói chưa bao giờ những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc lại phải chịu những tác động xói mòn mạnh mẽ, gay gắt như hiện nay. Nhiều tệ nạn xã hội phát triển như các đại dịch thời Trung cổ. Chỉ hơn mười năm qua, thời gian chưa đủ để một thế hệ sinh ra và trưởng thành, chúng ta có thể thấy, đặc biệt là ở các thành phố, các thị xã, thị tứ,... khá phổ biến một lối sống thực dụng, chạy theo tiện nghi vật chất, tôn thờ đồng tiền, sùng ngoại, coi nhẹ các giá trị lí tưởng, đạo đức của ông cha,... Nhiều sinh hoạt văn hoá, từ lễ hội đến biểu diễn nghệ thuật, bị nhuốm màu thương mại hóa. Các loại hình nghệ thuật, ca nhạc phương Tây ngày càng có nhiều thanh niên hâm mộ, tôn sùng, trong khi các loại hình nghệ thuật cổ truyền như chèo, tuồng, cải lương,... ngày càng thưa vắng người xem. Lớp trẻ lớn lên, nhiều em không còn biết hát dân ca, các bà mẹ không còn biết hát ru,... Thói đua đòi ăn chơi theo kiểu sống gấp “sống hôm nay không biết có ngày mai”, sống xa hoa, vô lối bằng đồng tiền phi lao động đã không còn là hiện tượng hiếm hoi.
Điều đáng nói trước tiên không phải là những hiện tượng tha hoá về nhân cách trong xã hội ta hôm nay. Điều đáng lo lắng hơn là xã hội chúng ta đã chưa tạo ra được một dư luận phê phán đủ mạnh để ngăn chặn những hiện tượng xuống cấp đạo đức như vậy và hậu quả là những hiện tượng “đồi phong bại tục” như vậy cứ ngang nhiên tồn tại, như “chọc tức”, như “trêu ngươi” mọi người! Sự bàng quan, thờ ơ theo kiểu “mũ ni che tai” này dù muốn hay không cũng là sự đồng loã với cái ác.
Bao trùm lên các hiện tượng tiêu cực ấy có thể nói là sự khủng hoảng lòng tin - con người không còn lí tưởng sống đúng đắn, mất định hướng giá trị. Không ít người trở thành tín đồ mù quáng của các dị giáo, của các thứ mê tín dị đoan đang có chiều hướng sinh sôi như nấm sau mưa (Những dãy xe máy, xe con biển trắng và cả biển xanh nối đuôi nhau hàng cây số trên đường vào xin lễ đền Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh là một minh chứng đáng buồn!).
Cùng với sự vận hành của cơ chế thị trường, của quá trình mở cửa, rõ ràng là toàn cầu hoá đang đem lại những thách thức gay gắt cho văn hoá dân tộc.
Toàn cầu hoá, như đã nói là một quá trình tất yếu, khách quan. Nó diễn ra ở mọi quốc gia trên Trái Đất này, không một dân tộc nào có thể bị cám dỗ bởi một thứ “chủ nghĩa biệt lập” nào đó mà đứng ra một bên, tránh được quá trình này động chạm tới mình. Điều quan trọng là chủ động đón nhận nó, có những đối sách thích hợp để phát huy mặt tích cực, hạn chế các tiêu cực mà nó có thể mang lại.
Như một cơ thể cường tráng có thể chống lại được mọi bệnh tật, dân tộc ta cần tự tìm trong chính mình những sức mạnh nội sinh để đứng vững trước các thử thách của toàn cầu hoá. [...]
Toàn cầu hoá chứa đựng thời cơ và những thách thức to lớn. Trong tiến trình lịch sử của mình, dân tộc ta đã tỏ rõ khả năng luôn biết đón nhận những thời cơ thuận lợi và vượt lên trên các thách thức để đi tới.
Thế kỉ XXI sắp tới. Thế giới sẽ chuyển động mạnh hơn bao giờ hết trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập. Chúng ta tin chắc rằng dân tộc Việt Nam sẽ khẳng định được chỗ đứng vững vàng của mình trong trào lưu đó với tất cả bản lĩnh sâu xa của nền văn hoá lâu đời, được tiếp thêm sức mạnh của thời đại, sức mạnh của lí tưởng độc lập dân tộc và công bằng xã hội.
(Theo Một góc nhìn của tri thức, tập một, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002)
Trong luận điểm 1 - Bản chất của toàn cầu hóa, tác giả bài viết đã không đưa ra lí lẽ nào dưới đây?
Toàn cầu hóa và bản sắc văn hóa dân tộc
Có thể đồng ý với nhận xét của nhà báo Rô-bớt J. Sa-mu-ơn-sân (Robert J. Samuelson) khi ông cho rằng: “Toàn cầu hoá là cách gọi mới cho một quá trình cũ.”
Trải qua mấy ngàn năm, thế giới đã phát triển chính là bằng con đường mở rộng quan hệ giao lưu về mọi mặt, từ kinh tế đến văn hoá giữa các nước, các khu vực. “Con đường tơ lụa” xuyên Á qua núi cao và sa mạc, các tuyến hàng hải giữa các nước, các châu lục từ khi có thuyền buồm và la bàn,... có thể coi là những bằng chứng hiển nhiên đầu tiên của cái gọi là quá trình “giao lưu quốc tế” trên phạm vi toàn thế giới đó. Từ mấy thế kỉ trước, có thể nói Hội An, Phố Hiến,... đã là những “thành phố mở cửa” đầu tiên của nước ta...
Tuy nhiên, trong một vài thập kỉ trở lại đây, rõ ràng đã xuất hiện nhu cầu gọi tiến trình giao lưu quốc tế đó bằng một cái tên mới là “toàn cầu hoá” bởi những biểu hiện mang tính “bùng nổ” của tiến trình này: đó là sự xuất hiện “đại trà” của các “xa lộ thông tin” trên toàn thế giới, sự mở rộng nhanh chóng của quá trình “tự do hoá thương mại”, sự sáp nhập các công ty liên quốc gia hùng mạnh trong các lĩnh vực tin học, truyền thông, chế tạo xe hơi,... sự nhất thể hoá về kinh tế - tài chính ở các khu vực, v.v. diễn ra trong bối cảnh “hậu chiến tranh lạnh” và sự phát triển như vũ bão của kĩ thuật công nghệ hiện đại,...
Đặc biệt trên lĩnh vực văn hoá, quá trình “toàn cầu hoá” diễn ra thật sự sôi động với sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện truyền thông đại chúng và sự bùng nổ của các ngành công nghiệp văn hoá. [...]
Như mọi hiện tượng đều có hai mặt phải - trái, thuận nghịch, toàn cầu hoá, theo chữ dùng của tác giả R.J. Sa-mu-ơn-sân đã nhắc ở trên, là một “thanh gươm hai lưỡi”. “Một mặt nó là cỗ xe có động cơ mạnh làm tăng tốc độ phát triển kinh tế, mở ra kĩ thuật mới và tăng sức sống ở cả những nước giàu lẫn nước nghèo. Mặt khác, nó cũng là một tiến trình đầy tranh cãi tiến công vào chủ quyền quốc gia, làm xói mòn nền văn hoá và truyền thống địa phương, đe doạ sự ổn định kinh tế và xã hội.”.
Có thể nói, lĩnh vực văn hoá là lĩnh vực chịu tác động hai mặt, dễ nhận thấy nhất của quá trình toàn cầu hoá.
Trong bài “Giao lưu văn hoá và việc bảo vệ bản sắc dân tộc” đăng trên trang nhất, báo Nhân Dân (9 - 1 - 2000), nhà báo Thái Bảo có đưa ra một nhận xét: Trong cách hiểu hiện nay về giao lưu văn hoá còn có “điều chưa thật khách quan là những lệch lạc và tiêu cực trong giao lưu văn hoá quốc tế thường bị phê phán, trong khi đó những mặt tích cực của nó dường như ít được nhấn mạnh”.
Từ bao đời nay, nền văn hoá nước ta không chỉ là thành quả của hàng ngàn năm chiến đấu giữ nước và lao động sáng tạo dựng nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam mà còn là kết quả của các quá trình hấp thụ tinh hoa của nhiều nền văn hoá, văn minh thế giới. Sự gặp gỡ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội, giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin (Marx - Lenin) diễn ra trong thế kỉ XX ở nước ta đem lại những thay đổi cơ bản trong số phận lịch sử của dân tộc, là một biểu hiện đầy sức thuyết phục về mặt tích cực của sự giao lưu văn hoá nói trên. Trong bối cảnh có thể nói là có sự khủng hoảng lí luận ở phạm vi toàn cầu về con đường đi sắp tới của các dân tộc, sự kiện này là một điểm sáng đáng lưu ý.
Trong quá trình toàn cầu hoá, về mặt văn hoá, chúng ta cần thấy những thời cơ tốt để mở rộng cửa “đón nắng gió” bốn phương: tăng thêm tính hiện đại của văn hoá (để dứt bỏ những gì là cổ hủ, thủ cựu - hệ quả của một nền sản xuất nhỏ, phân tán), mở rộng và đào sâu thêm các giá trị nhân văn - dân chủ - quốc tế của văn hoá (để loại trừ những tàn dư của ý thức hệ phong kiến, gia trưởng), tiếp thu tính công nghiệp, tính khoa học, tính kỉ cương trong công việc và sinh hoạt giao tiếp cộng đồng (để dứt khoát chia tay với thói quen sống theo “lệ làng” coi thường “phép nước”, thói quen dềnh dang, thù tạc, không biết tiếc thời giờ,...), tiếp cận những thành tựu to lớn của công nghệ kĩ thuật mới trên các lĩnh vực truyền thông, truyền hình, in ấn, sản xuất băng đĩa âm thanh và hình ảnh, sản xuất các phương tiện nghe - nhìn, đổi mới và đa dạng hoá các loại hình nghệ thuật,...
Sức hấp dẫn của những loại hình hoạt động văn hoá, biểu diễn nghệ thuật, vui chơi giải trí cũng như lối sống tiện nghi, hiện đại từ các nước phát triển đối với nhiều người dân nước ta, nhất là đối với lớp trẻ, là điều dễ nhận thấy, có thể nói là đã và đang diễn ra phần nào độc lập với ý muốn chủ quan của chúng ta, đặc biệt là của những người đứng tuổi.
Ngoài mặt thuận của quá trình này, điều chúng ta cần hết sức quan tâm là mặt nghịch của nó, nhất là khi quá trình toàn cầu hoá diễn ra đồng thời với tiến trình mở cửa về kinh tế - văn hoá của nước ta, đồng thời với tiến trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ kế hoạch hoá - tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở đây, có thể nói mặt trái của toàn cầu hoá đã có “mảnh đất thích hợp” để nảy nở sinh sôi, là mặt trái của cơ chế thị trường tồn tại ở nước ta.
Chưa có thời kì nào trong lịch sử nước ta, sức lao động sáng tạo của mỗi con người lại có dịp được phát triển đầy hứa hẹn, xã hội trở nên cởi mở, năng động hơn. Nhưng bên cạnh mặt được rất cơ bản đó cũng có thể nói chưa bao giờ những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc lại phải chịu những tác động xói mòn mạnh mẽ, gay gắt như hiện nay. Nhiều tệ nạn xã hội phát triển như các đại dịch thời Trung cổ. Chỉ hơn mười năm qua, thời gian chưa đủ để một thế hệ sinh ra và trưởng thành, chúng ta có thể thấy, đặc biệt là ở các thành phố, các thị xã, thị tứ,... khá phổ biến một lối sống thực dụng, chạy theo tiện nghi vật chất, tôn thờ đồng tiền, sùng ngoại, coi nhẹ các giá trị lí tưởng, đạo đức của ông cha,... Nhiều sinh hoạt văn hoá, từ lễ hội đến biểu diễn nghệ thuật, bị nhuốm màu thương mại hóa. Các loại hình nghệ thuật, ca nhạc phương Tây ngày càng có nhiều thanh niên hâm mộ, tôn sùng, trong khi các loại hình nghệ thuật cổ truyền như chèo, tuồng, cải lương,... ngày càng thưa vắng người xem. Lớp trẻ lớn lên, nhiều em không còn biết hát dân ca, các bà mẹ không còn biết hát ru,... Thói đua đòi ăn chơi theo kiểu sống gấp “sống hôm nay không biết có ngày mai”, sống xa hoa, vô lối bằng đồng tiền phi lao động đã không còn là hiện tượng hiếm hoi.
Điều đáng nói trước tiên không phải là những hiện tượng tha hoá về nhân cách trong xã hội ta hôm nay. Điều đáng lo lắng hơn là xã hội chúng ta đã chưa tạo ra được một dư luận phê phán đủ mạnh để ngăn chặn những hiện tượng xuống cấp đạo đức như vậy và hậu quả là những hiện tượng “đồi phong bại tục” như vậy cứ ngang nhiên tồn tại, như “chọc tức”, như “trêu ngươi” mọi người! Sự bàng quan, thờ ơ theo kiểu “mũ ni che tai” này dù muốn hay không cũng là sự đồng loã với cái ác.
Bao trùm lên các hiện tượng tiêu cực ấy có thể nói là sự khủng hoảng lòng tin - con người không còn lí tưởng sống đúng đắn, mất định hướng giá trị. Không ít người trở thành tín đồ mù quáng của các dị giáo, của các thứ mê tín dị đoan đang có chiều hướng sinh sôi như nấm sau mưa (Những dãy xe máy, xe con biển trắng và cả biển xanh nối đuôi nhau hàng cây số trên đường vào xin lễ đền Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh là một minh chứng đáng buồn!).
Cùng với sự vận hành của cơ chế thị trường, của quá trình mở cửa, rõ ràng là toàn cầu hoá đang đem lại những thách thức gay gắt cho văn hoá dân tộc.
Toàn cầu hoá, như đã nói là một quá trình tất yếu, khách quan. Nó diễn ra ở mọi quốc gia trên Trái Đất này, không một dân tộc nào có thể bị cám dỗ bởi một thứ “chủ nghĩa biệt lập” nào đó mà đứng ra một bên, tránh được quá trình này động chạm tới mình. Điều quan trọng là chủ động đón nhận nó, có những đối sách thích hợp để phát huy mặt tích cực, hạn chế các tiêu cực mà nó có thể mang lại.
Như một cơ thể cường tráng có thể chống lại được mọi bệnh tật, dân tộc ta cần tự tìm trong chính mình những sức mạnh nội sinh để đứng vững trước các thử thách của toàn cầu hoá. [...]
Toàn cầu hoá chứa đựng thời cơ và những thách thức to lớn. Trong tiến trình lịch sử của mình, dân tộc ta đã tỏ rõ khả năng luôn biết đón nhận những thời cơ thuận lợi và vượt lên trên các thách thức để đi tới.
Thế kỉ XXI sắp tới. Thế giới sẽ chuyển động mạnh hơn bao giờ hết trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập. Chúng ta tin chắc rằng dân tộc Việt Nam sẽ khẳng định được chỗ đứng vững vàng của mình trong trào lưu đó với tất cả bản lĩnh sâu xa của nền văn hoá lâu đời, được tiếp thêm sức mạnh của thời đại, sức mạnh của lí tưởng độc lập dân tộc và công bằng xã hội.
(Theo Một góc nhìn của tri thức, tập một, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002)
Toàn cầu hóa tác động mạnh mẽ và rõ rệt nhất ở nước ta trên lĩnh vực nào dưới đây?
Toàn cầu hóa và bản sắc văn hóa dân tộc
Có thể đồng ý với nhận xét của nhà báo Rô-bớt J. Sa-mu-ơn-sân (Robert J. Samuelson) khi ông cho rằng: “Toàn cầu hoá là cách gọi mới cho một quá trình cũ.”
Trải qua mấy ngàn năm, thế giới đã phát triển chính là bằng con đường mở rộng quan hệ giao lưu về mọi mặt, từ kinh tế đến văn hoá giữa các nước, các khu vực. “Con đường tơ lụa” xuyên Á qua núi cao và sa mạc, các tuyến hàng hải giữa các nước, các châu lục từ khi có thuyền buồm và la bàn,... có thể coi là những bằng chứng hiển nhiên đầu tiên của cái gọi là quá trình “giao lưu quốc tế” trên phạm vi toàn thế giới đó. Từ mấy thế kỉ trước, có thể nói Hội An, Phố Hiến,... đã là những “thành phố mở cửa” đầu tiên của nước ta...
Tuy nhiên, trong một vài thập kỉ trở lại đây, rõ ràng đã xuất hiện nhu cầu gọi tiến trình giao lưu quốc tế đó bằng một cái tên mới là “toàn cầu hoá” bởi những biểu hiện mang tính “bùng nổ” của tiến trình này: đó là sự xuất hiện “đại trà” của các “xa lộ thông tin” trên toàn thế giới, sự mở rộng nhanh chóng của quá trình “tự do hoá thương mại”, sự sáp nhập các công ty liên quốc gia hùng mạnh trong các lĩnh vực tin học, truyền thông, chế tạo xe hơi,... sự nhất thể hoá về kinh tế - tài chính ở các khu vực, v.v. diễn ra trong bối cảnh “hậu chiến tranh lạnh” và sự phát triển như vũ bão của kĩ thuật công nghệ hiện đại,...
Đặc biệt trên lĩnh vực văn hoá, quá trình “toàn cầu hoá” diễn ra thật sự sôi động với sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện truyền thông đại chúng và sự bùng nổ của các ngành công nghiệp văn hoá. [...]
Như mọi hiện tượng đều có hai mặt phải - trái, thuận nghịch, toàn cầu hoá, theo chữ dùng của tác giả R.J. Sa-mu-ơn-sân đã nhắc ở trên, là một “thanh gươm hai lưỡi”. “Một mặt nó là cỗ xe có động cơ mạnh làm tăng tốc độ phát triển kinh tế, mở ra kĩ thuật mới và tăng sức sống ở cả những nước giàu lẫn nước nghèo. Mặt khác, nó cũng là một tiến trình đầy tranh cãi tiến công vào chủ quyền quốc gia, làm xói mòn nền văn hoá và truyền thống địa phương, đe doạ sự ổn định kinh tế và xã hội.”.
Có thể nói, lĩnh vực văn hoá là lĩnh vực chịu tác động hai mặt, dễ nhận thấy nhất của quá trình toàn cầu hoá.
Trong bài “Giao lưu văn hoá và việc bảo vệ bản sắc dân tộc” đăng trên trang nhất, báo Nhân Dân (9 - 1 - 2000), nhà báo Thái Bảo có đưa ra một nhận xét: Trong cách hiểu hiện nay về giao lưu văn hoá còn có “điều chưa thật khách quan là những lệch lạc và tiêu cực trong giao lưu văn hoá quốc tế thường bị phê phán, trong khi đó những mặt tích cực của nó dường như ít được nhấn mạnh”.
Từ bao đời nay, nền văn hoá nước ta không chỉ là thành quả của hàng ngàn năm chiến đấu giữ nước và lao động sáng tạo dựng nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam mà còn là kết quả của các quá trình hấp thụ tinh hoa của nhiều nền văn hoá, văn minh thế giới. Sự gặp gỡ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội, giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin (Marx - Lenin) diễn ra trong thế kỉ XX ở nước ta đem lại những thay đổi cơ bản trong số phận lịch sử của dân tộc, là một biểu hiện đầy sức thuyết phục về mặt tích cực của sự giao lưu văn hoá nói trên. Trong bối cảnh có thể nói là có sự khủng hoảng lí luận ở phạm vi toàn cầu về con đường đi sắp tới của các dân tộc, sự kiện này là một điểm sáng đáng lưu ý.
Trong quá trình toàn cầu hoá, về mặt văn hoá, chúng ta cần thấy những thời cơ tốt để mở rộng cửa “đón nắng gió” bốn phương: tăng thêm tính hiện đại của văn hoá (để dứt bỏ những gì là cổ hủ, thủ cựu - hệ quả của một nền sản xuất nhỏ, phân tán), mở rộng và đào sâu thêm các giá trị nhân văn - dân chủ - quốc tế của văn hoá (để loại trừ những tàn dư của ý thức hệ phong kiến, gia trưởng), tiếp thu tính công nghiệp, tính khoa học, tính kỉ cương trong công việc và sinh hoạt giao tiếp cộng đồng (để dứt khoát chia tay với thói quen sống theo “lệ làng” coi thường “phép nước”, thói quen dềnh dang, thù tạc, không biết tiếc thời giờ,...), tiếp cận những thành tựu to lớn của công nghệ kĩ thuật mới trên các lĩnh vực truyền thông, truyền hình, in ấn, sản xuất băng đĩa âm thanh và hình ảnh, sản xuất các phương tiện nghe - nhìn, đổi mới và đa dạng hoá các loại hình nghệ thuật,...
Sức hấp dẫn của những loại hình hoạt động văn hoá, biểu diễn nghệ thuật, vui chơi giải trí cũng như lối sống tiện nghi, hiện đại từ các nước phát triển đối với nhiều người dân nước ta, nhất là đối với lớp trẻ, là điều dễ nhận thấy, có thể nói là đã và đang diễn ra phần nào độc lập với ý muốn chủ quan của chúng ta, đặc biệt là của những người đứng tuổi.
Ngoài mặt thuận của quá trình này, điều chúng ta cần hết sức quan tâm là mặt nghịch của nó, nhất là khi quá trình toàn cầu hoá diễn ra đồng thời với tiến trình mở cửa về kinh tế - văn hoá của nước ta, đồng thời với tiến trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ kế hoạch hoá - tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở đây, có thể nói mặt trái của toàn cầu hoá đã có “mảnh đất thích hợp” để nảy nở sinh sôi, là mặt trái của cơ chế thị trường tồn tại ở nước ta.
Chưa có thời kì nào trong lịch sử nước ta, sức lao động sáng tạo của mỗi con người lại có dịp được phát triển đầy hứa hẹn, xã hội trở nên cởi mở, năng động hơn. Nhưng bên cạnh mặt được rất cơ bản đó cũng có thể nói chưa bao giờ những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc lại phải chịu những tác động xói mòn mạnh mẽ, gay gắt như hiện nay. Nhiều tệ nạn xã hội phát triển như các đại dịch thời Trung cổ. Chỉ hơn mười năm qua, thời gian chưa đủ để một thế hệ sinh ra và trưởng thành, chúng ta có thể thấy, đặc biệt là ở các thành phố, các thị xã, thị tứ,... khá phổ biến một lối sống thực dụng, chạy theo tiện nghi vật chất, tôn thờ đồng tiền, sùng ngoại, coi nhẹ các giá trị lí tưởng, đạo đức của ông cha,... Nhiều sinh hoạt văn hoá, từ lễ hội đến biểu diễn nghệ thuật, bị nhuốm màu thương mại hóa. Các loại hình nghệ thuật, ca nhạc phương Tây ngày càng có nhiều thanh niên hâm mộ, tôn sùng, trong khi các loại hình nghệ thuật cổ truyền như chèo, tuồng, cải lương,... ngày càng thưa vắng người xem. Lớp trẻ lớn lên, nhiều em không còn biết hát dân ca, các bà mẹ không còn biết hát ru,... Thói đua đòi ăn chơi theo kiểu sống gấp “sống hôm nay không biết có ngày mai”, sống xa hoa, vô lối bằng đồng tiền phi lao động đã không còn là hiện tượng hiếm hoi.
Điều đáng nói trước tiên không phải là những hiện tượng tha hoá về nhân cách trong xã hội ta hôm nay. Điều đáng lo lắng hơn là xã hội chúng ta đã chưa tạo ra được một dư luận phê phán đủ mạnh để ngăn chặn những hiện tượng xuống cấp đạo đức như vậy và hậu quả là những hiện tượng “đồi phong bại tục” như vậy cứ ngang nhiên tồn tại, như “chọc tức”, như “trêu ngươi” mọi người! Sự bàng quan, thờ ơ theo kiểu “mũ ni che tai” này dù muốn hay không cũng là sự đồng loã với cái ác.
Bao trùm lên các hiện tượng tiêu cực ấy có thể nói là sự khủng hoảng lòng tin - con người không còn lí tưởng sống đúng đắn, mất định hướng giá trị. Không ít người trở thành tín đồ mù quáng của các dị giáo, của các thứ mê tín dị đoan đang có chiều hướng sinh sôi như nấm sau mưa (Những dãy xe máy, xe con biển trắng và cả biển xanh nối đuôi nhau hàng cây số trên đường vào xin lễ đền Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh là một minh chứng đáng buồn!).
Cùng với sự vận hành của cơ chế thị trường, của quá trình mở cửa, rõ ràng là toàn cầu hoá đang đem lại những thách thức gay gắt cho văn hoá dân tộc.
Toàn cầu hoá, như đã nói là một quá trình tất yếu, khách quan. Nó diễn ra ở mọi quốc gia trên Trái Đất này, không một dân tộc nào có thể bị cám dỗ bởi một thứ “chủ nghĩa biệt lập” nào đó mà đứng ra một bên, tránh được quá trình này động chạm tới mình. Điều quan trọng là chủ động đón nhận nó, có những đối sách thích hợp để phát huy mặt tích cực, hạn chế các tiêu cực mà nó có thể mang lại.
Như một cơ thể cường tráng có thể chống lại được mọi bệnh tật, dân tộc ta cần tự tìm trong chính mình những sức mạnh nội sinh để đứng vững trước các thử thách của toàn cầu hoá. [...]
Toàn cầu hoá chứa đựng thời cơ và những thách thức to lớn. Trong tiến trình lịch sử của mình, dân tộc ta đã tỏ rõ khả năng luôn biết đón nhận những thời cơ thuận lợi và vượt lên trên các thách thức để đi tới.
Thế kỉ XXI sắp tới. Thế giới sẽ chuyển động mạnh hơn bao giờ hết trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập. Chúng ta tin chắc rằng dân tộc Việt Nam sẽ khẳng định được chỗ đứng vững vàng của mình trong trào lưu đó với tất cả bản lĩnh sâu xa của nền văn hoá lâu đời, được tiếp thêm sức mạnh của thời đại, sức mạnh của lí tưởng độc lập dân tộc và công bằng xã hội.
(Theo Một góc nhìn của tri thức, tập một, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002)
Khi chỉ ra những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa đối với lĩnh vực văn hóa ở nước ta, tác giả bài viết đã không chỉ ra tình trạng nào dưới đây?
Toàn cầu hóa và bản sắc văn hóa dân tộc
Có thể đồng ý với nhận xét của nhà báo Rô-bớt J. Sa-mu-ơn-sân (Robert J. Samuelson) khi ông cho rằng: “Toàn cầu hoá là cách gọi mới cho một quá trình cũ.”
Trải qua mấy ngàn năm, thế giới đã phát triển chính là bằng con đường mở rộng quan hệ giao lưu về mọi mặt, từ kinh tế đến văn hoá giữa các nước, các khu vực. “Con đường tơ lụa” xuyên Á qua núi cao và sa mạc, các tuyến hàng hải giữa các nước, các châu lục từ khi có thuyền buồm và la bàn,... có thể coi là những bằng chứng hiển nhiên đầu tiên của cái gọi là quá trình “giao lưu quốc tế” trên phạm vi toàn thế giới đó. Từ mấy thế kỉ trước, có thể nói Hội An, Phố Hiến,... đã là những “thành phố mở cửa” đầu tiên của nước ta...
Tuy nhiên, trong một vài thập kỉ trở lại đây, rõ ràng đã xuất hiện nhu cầu gọi tiến trình giao lưu quốc tế đó bằng một cái tên mới là “toàn cầu hoá” bởi những biểu hiện mang tính “bùng nổ” của tiến trình này: đó là sự xuất hiện “đại trà” của các “xa lộ thông tin” trên toàn thế giới, sự mở rộng nhanh chóng của quá trình “tự do hoá thương mại”, sự sáp nhập các công ty liên quốc gia hùng mạnh trong các lĩnh vực tin học, truyền thông, chế tạo xe hơi,... sự nhất thể hoá về kinh tế - tài chính ở các khu vực, v.v. diễn ra trong bối cảnh “hậu chiến tranh lạnh” và sự phát triển như vũ bão của kĩ thuật công nghệ hiện đại,...
Đặc biệt trên lĩnh vực văn hoá, quá trình “toàn cầu hoá” diễn ra thật sự sôi động với sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện truyền thông đại chúng và sự bùng nổ của các ngành công nghiệp văn hoá. [...]
Như mọi hiện tượng đều có hai mặt phải - trái, thuận nghịch, toàn cầu hoá, theo chữ dùng của tác giả R.J. Sa-mu-ơn-sân đã nhắc ở trên, là một “thanh gươm hai lưỡi”. “Một mặt nó là cỗ xe có động cơ mạnh làm tăng tốc độ phát triển kinh tế, mở ra kĩ thuật mới và tăng sức sống ở cả những nước giàu lẫn nước nghèo. Mặt khác, nó cũng là một tiến trình đầy tranh cãi tiến công vào chủ quyền quốc gia, làm xói mòn nền văn hoá và truyền thống địa phương, đe doạ sự ổn định kinh tế và xã hội.”.
Có thể nói, lĩnh vực văn hoá là lĩnh vực chịu tác động hai mặt, dễ nhận thấy nhất của quá trình toàn cầu hoá.
Trong bài “Giao lưu văn hoá và việc bảo vệ bản sắc dân tộc” đăng trên trang nhất, báo Nhân Dân (9 - 1 - 2000), nhà báo Thái Bảo có đưa ra một nhận xét: Trong cách hiểu hiện nay về giao lưu văn hoá còn có “điều chưa thật khách quan là những lệch lạc và tiêu cực trong giao lưu văn hoá quốc tế thường bị phê phán, trong khi đó những mặt tích cực của nó dường như ít được nhấn mạnh”.
Từ bao đời nay, nền văn hoá nước ta không chỉ là thành quả của hàng ngàn năm chiến đấu giữ nước và lao động sáng tạo dựng nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam mà còn là kết quả của các quá trình hấp thụ tinh hoa của nhiều nền văn hoá, văn minh thế giới. Sự gặp gỡ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội, giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin (Marx - Lenin) diễn ra trong thế kỉ XX ở nước ta đem lại những thay đổi cơ bản trong số phận lịch sử của dân tộc, là một biểu hiện đầy sức thuyết phục về mặt tích cực của sự giao lưu văn hoá nói trên. Trong bối cảnh có thể nói là có sự khủng hoảng lí luận ở phạm vi toàn cầu về con đường đi sắp tới của các dân tộc, sự kiện này là một điểm sáng đáng lưu ý.
Trong quá trình toàn cầu hoá, về mặt văn hoá, chúng ta cần thấy những thời cơ tốt để mở rộng cửa “đón nắng gió” bốn phương: tăng thêm tính hiện đại của văn hoá (để dứt bỏ những gì là cổ hủ, thủ cựu - hệ quả của một nền sản xuất nhỏ, phân tán), mở rộng và đào sâu thêm các giá trị nhân văn - dân chủ - quốc tế của văn hoá (để loại trừ những tàn dư của ý thức hệ phong kiến, gia trưởng), tiếp thu tính công nghiệp, tính khoa học, tính kỉ cương trong công việc và sinh hoạt giao tiếp cộng đồng (để dứt khoát chia tay với thói quen sống theo “lệ làng” coi thường “phép nước”, thói quen dềnh dang, thù tạc, không biết tiếc thời giờ,...), tiếp cận những thành tựu to lớn của công nghệ kĩ thuật mới trên các lĩnh vực truyền thông, truyền hình, in ấn, sản xuất băng đĩa âm thanh và hình ảnh, sản xuất các phương tiện nghe - nhìn, đổi mới và đa dạng hoá các loại hình nghệ thuật,...
Sức hấp dẫn của những loại hình hoạt động văn hoá, biểu diễn nghệ thuật, vui chơi giải trí cũng như lối sống tiện nghi, hiện đại từ các nước phát triển đối với nhiều người dân nước ta, nhất là đối với lớp trẻ, là điều dễ nhận thấy, có thể nói là đã và đang diễn ra phần nào độc lập với ý muốn chủ quan của chúng ta, đặc biệt là của những người đứng tuổi.
Ngoài mặt thuận của quá trình này, điều chúng ta cần hết sức quan tâm là mặt nghịch của nó, nhất là khi quá trình toàn cầu hoá diễn ra đồng thời với tiến trình mở cửa về kinh tế - văn hoá của nước ta, đồng thời với tiến trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ kế hoạch hoá - tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở đây, có thể nói mặt trái của toàn cầu hoá đã có “mảnh đất thích hợp” để nảy nở sinh sôi, là mặt trái của cơ chế thị trường tồn tại ở nước ta.
Chưa có thời kì nào trong lịch sử nước ta, sức lao động sáng tạo của mỗi con người lại có dịp được phát triển đầy hứa hẹn, xã hội trở nên cởi mở, năng động hơn. Nhưng bên cạnh mặt được rất cơ bản đó cũng có thể nói chưa bao giờ những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc lại phải chịu những tác động xói mòn mạnh mẽ, gay gắt như hiện nay. Nhiều tệ nạn xã hội phát triển như các đại dịch thời Trung cổ. Chỉ hơn mười năm qua, thời gian chưa đủ để một thế hệ sinh ra và trưởng thành, chúng ta có thể thấy, đặc biệt là ở các thành phố, các thị xã, thị tứ,... khá phổ biến một lối sống thực dụng, chạy theo tiện nghi vật chất, tôn thờ đồng tiền, sùng ngoại, coi nhẹ các giá trị lí tưởng, đạo đức của ông cha,... Nhiều sinh hoạt văn hoá, từ lễ hội đến biểu diễn nghệ thuật, bị nhuốm màu thương mại hóa. Các loại hình nghệ thuật, ca nhạc phương Tây ngày càng có nhiều thanh niên hâm mộ, tôn sùng, trong khi các loại hình nghệ thuật cổ truyền như chèo, tuồng, cải lương,... ngày càng thưa vắng người xem. Lớp trẻ lớn lên, nhiều em không còn biết hát dân ca, các bà mẹ không còn biết hát ru,... Thói đua đòi ăn chơi theo kiểu sống gấp “sống hôm nay không biết có ngày mai”, sống xa hoa, vô lối bằng đồng tiền phi lao động đã không còn là hiện tượng hiếm hoi.
Điều đáng nói trước tiên không phải là những hiện tượng tha hoá về nhân cách trong xã hội ta hôm nay. Điều đáng lo lắng hơn là xã hội chúng ta đã chưa tạo ra được một dư luận phê phán đủ mạnh để ngăn chặn những hiện tượng xuống cấp đạo đức như vậy và hậu quả là những hiện tượng “đồi phong bại tục” như vậy cứ ngang nhiên tồn tại, như “chọc tức”, như “trêu ngươi” mọi người! Sự bàng quan, thờ ơ theo kiểu “mũ ni che tai” này dù muốn hay không cũng là sự đồng loã với cái ác.
Bao trùm lên các hiện tượng tiêu cực ấy có thể nói là sự khủng hoảng lòng tin - con người không còn lí tưởng sống đúng đắn, mất định hướng giá trị. Không ít người trở thành tín đồ mù quáng của các dị giáo, của các thứ mê tín dị đoan đang có chiều hướng sinh sôi như nấm sau mưa (Những dãy xe máy, xe con biển trắng và cả biển xanh nối đuôi nhau hàng cây số trên đường vào xin lễ đền Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh là một minh chứng đáng buồn!).
Cùng với sự vận hành của cơ chế thị trường, của quá trình mở cửa, rõ ràng là toàn cầu hoá đang đem lại những thách thức gay gắt cho văn hoá dân tộc.
Toàn cầu hoá, như đã nói là một quá trình tất yếu, khách quan. Nó diễn ra ở mọi quốc gia trên Trái Đất này, không một dân tộc nào có thể bị cám dỗ bởi một thứ “chủ nghĩa biệt lập” nào đó mà đứng ra một bên, tránh được quá trình này động chạm tới mình. Điều quan trọng là chủ động đón nhận nó, có những đối sách thích hợp để phát huy mặt tích cực, hạn chế các tiêu cực mà nó có thể mang lại.
Như một cơ thể cường tráng có thể chống lại được mọi bệnh tật, dân tộc ta cần tự tìm trong chính mình những sức mạnh nội sinh để đứng vững trước các thử thách của toàn cầu hoá. [...]
Toàn cầu hoá chứa đựng thời cơ và những thách thức to lớn. Trong tiến trình lịch sử của mình, dân tộc ta đã tỏ rõ khả năng luôn biết đón nhận những thời cơ thuận lợi và vượt lên trên các thách thức để đi tới.
Thế kỉ XXI sắp tới. Thế giới sẽ chuyển động mạnh hơn bao giờ hết trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập. Chúng ta tin chắc rằng dân tộc Việt Nam sẽ khẳng định được chỗ đứng vững vàng của mình trong trào lưu đó với tất cả bản lĩnh sâu xa của nền văn hoá lâu đời, được tiếp thêm sức mạnh của thời đại, sức mạnh của lí tưởng độc lập dân tộc và công bằng xã hội.
(Theo Một góc nhìn của tri thức, tập một, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002)
Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống.
Ở luận điểm thứ 3 - của toàn cầu hóa, tác giả đã đưa ra lí lẽ rằng toàn cầu hóa mang tính , diễn ra ở khắp mọi nơi trên thế giới; vì vậy, chúng ta cần trong việc tiếp nhận nó và tìm ra những đối sách thích hợp nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt của toàn cầu hóa. Và để chứng minh cho luận điểm này, tác giả đã đưa ra ví dụ về cách đón nhận của đất nước ta trong tiến trình lịch sử của dân tộc.
Toàn cầu hóa và bản sắc văn hóa dân tộc
Có thể đồng ý với nhận xét của nhà báo Rô-bớt J. Sa-mu-ơn-sân (Robert J. Samuelson) khi ông cho rằng: “Toàn cầu hoá là cách gọi mới cho một quá trình cũ.”
Trải qua mấy ngàn năm, thế giới đã phát triển chính là bằng con đường mở rộng quan hệ giao lưu về mọi mặt, từ kinh tế đến văn hoá giữa các nước, các khu vực. “Con đường tơ lụa” xuyên Á qua núi cao và sa mạc, các tuyến hàng hải giữa các nước, các châu lục từ khi có thuyền buồm và la bàn,... có thể coi là những bằng chứng hiển nhiên đầu tiên của cái gọi là quá trình “giao lưu quốc tế” trên phạm vi toàn thế giới đó. Từ mấy thế kỉ trước, có thể nói Hội An, Phố Hiến,... đã là những “thành phố mở cửa” đầu tiên của nước ta...
Tuy nhiên, trong một vài thập kỉ trở lại đây, rõ ràng đã xuất hiện nhu cầu gọi tiến trình giao lưu quốc tế đó bằng một cái tên mới là “toàn cầu hoá” bởi những biểu hiện mang tính “bùng nổ” của tiến trình này: đó là sự xuất hiện “đại trà” của các “xa lộ thông tin” trên toàn thế giới, sự mở rộng nhanh chóng của quá trình “tự do hoá thương mại”, sự sáp nhập các công ty liên quốc gia hùng mạnh trong các lĩnh vực tin học, truyền thông, chế tạo xe hơi,... sự nhất thể hoá về kinh tế - tài chính ở các khu vực, v.v. diễn ra trong bối cảnh “hậu chiến tranh lạnh” và sự phát triển như vũ bão của kĩ thuật công nghệ hiện đại,...
Đặc biệt trên lĩnh vực văn hoá, quá trình “toàn cầu hoá” diễn ra thật sự sôi động với sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện truyền thông đại chúng và sự bùng nổ của các ngành công nghiệp văn hoá. [...]
Như mọi hiện tượng đều có hai mặt phải - trái, thuận nghịch, toàn cầu hoá, theo chữ dùng của tác giả R.J. Sa-mu-ơn-sân đã nhắc ở trên, là một “thanh gươm hai lưỡi”. “Một mặt nó là cỗ xe có động cơ mạnh làm tăng tốc độ phát triển kinh tế, mở ra kĩ thuật mới và tăng sức sống ở cả những nước giàu lẫn nước nghèo. Mặt khác, nó cũng là một tiến trình đầy tranh cãi tiến công vào chủ quyền quốc gia, làm xói mòn nền văn hoá và truyền thống địa phương, đe doạ sự ổn định kinh tế và xã hội.”.
Có thể nói, lĩnh vực văn hoá là lĩnh vực chịu tác động hai mặt, dễ nhận thấy nhất của quá trình toàn cầu hoá.
Trong bài “Giao lưu văn hoá và việc bảo vệ bản sắc dân tộc” đăng trên trang nhất, báo Nhân Dân (9 - 1 - 2000), nhà báo Thái Bảo có đưa ra một nhận xét: Trong cách hiểu hiện nay về giao lưu văn hoá còn có “điều chưa thật khách quan là những lệch lạc và tiêu cực trong giao lưu văn hoá quốc tế thường bị phê phán, trong khi đó những mặt tích cực của nó dường như ít được nhấn mạnh”.
Từ bao đời nay, nền văn hoá nước ta không chỉ là thành quả của hàng ngàn năm chiến đấu giữ nước và lao động sáng tạo dựng nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam mà còn là kết quả của các quá trình hấp thụ tinh hoa của nhiều nền văn hoá, văn minh thế giới. Sự gặp gỡ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội, giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin (Marx - Lenin) diễn ra trong thế kỉ XX ở nước ta đem lại những thay đổi cơ bản trong số phận lịch sử của dân tộc, là một biểu hiện đầy sức thuyết phục về mặt tích cực của sự giao lưu văn hoá nói trên. Trong bối cảnh có thể nói là có sự khủng hoảng lí luận ở phạm vi toàn cầu về con đường đi sắp tới của các dân tộc, sự kiện này là một điểm sáng đáng lưu ý.
Trong quá trình toàn cầu hoá, về mặt văn hoá, chúng ta cần thấy những thời cơ tốt để mở rộng cửa “đón nắng gió” bốn phương: tăng thêm tính hiện đại của văn hoá (để dứt bỏ những gì là cổ hủ, thủ cựu - hệ quả của một nền sản xuất nhỏ, phân tán), mở rộng và đào sâu thêm các giá trị nhân văn - dân chủ - quốc tế của văn hoá (để loại trừ những tàn dư của ý thức hệ phong kiến, gia trưởng), tiếp thu tính công nghiệp, tính khoa học, tính kỉ cương trong công việc và sinh hoạt giao tiếp cộng đồng (để dứt khoát chia tay với thói quen sống theo “lệ làng” coi thường “phép nước”, thói quen dềnh dang, thù tạc, không biết tiếc thời giờ,...), tiếp cận những thành tựu to lớn của công nghệ kĩ thuật mới trên các lĩnh vực truyền thông, truyền hình, in ấn, sản xuất băng đĩa âm thanh và hình ảnh, sản xuất các phương tiện nghe - nhìn, đổi mới và đa dạng hoá các loại hình nghệ thuật,...
Sức hấp dẫn của những loại hình hoạt động văn hoá, biểu diễn nghệ thuật, vui chơi giải trí cũng như lối sống tiện nghi, hiện đại từ các nước phát triển đối với nhiều người dân nước ta, nhất là đối với lớp trẻ, là điều dễ nhận thấy, có thể nói là đã và đang diễn ra phần nào độc lập với ý muốn chủ quan của chúng ta, đặc biệt là của những người đứng tuổi.
Ngoài mặt thuận của quá trình này, điều chúng ta cần hết sức quan tâm là mặt nghịch của nó, nhất là khi quá trình toàn cầu hoá diễn ra đồng thời với tiến trình mở cửa về kinh tế - văn hoá của nước ta, đồng thời với tiến trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ kế hoạch hoá - tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở đây, có thể nói mặt trái của toàn cầu hoá đã có “mảnh đất thích hợp” để nảy nở sinh sôi, là mặt trái của cơ chế thị trường tồn tại ở nước ta.
Chưa có thời kì nào trong lịch sử nước ta, sức lao động sáng tạo của mỗi con người lại có dịp được phát triển đầy hứa hẹn, xã hội trở nên cởi mở, năng động hơn. Nhưng bên cạnh mặt được rất cơ bản đó cũng có thể nói chưa bao giờ những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc lại phải chịu những tác động xói mòn mạnh mẽ, gay gắt như hiện nay. Nhiều tệ nạn xã hội phát triển như các đại dịch thời Trung cổ. Chỉ hơn mười năm qua, thời gian chưa đủ để một thế hệ sinh ra và trưởng thành, chúng ta có thể thấy, đặc biệt là ở các thành phố, các thị xã, thị tứ,... khá phổ biến một lối sống thực dụng, chạy theo tiện nghi vật chất, tôn thờ đồng tiền, sùng ngoại, coi nhẹ các giá trị lí tưởng, đạo đức của ông cha,... Nhiều sinh hoạt văn hoá, từ lễ hội đến biểu diễn nghệ thuật, bị nhuốm màu thương mại hóa. Các loại hình nghệ thuật, ca nhạc phương Tây ngày càng có nhiều thanh niên hâm mộ, tôn sùng, trong khi các loại hình nghệ thuật cổ truyền như chèo, tuồng, cải lương,... ngày càng thưa vắng người xem. Lớp trẻ lớn lên, nhiều em không còn biết hát dân ca, các bà mẹ không còn biết hát ru,... Thói đua đòi ăn chơi theo kiểu sống gấp “sống hôm nay không biết có ngày mai”, sống xa hoa, vô lối bằng đồng tiền phi lao động đã không còn là hiện tượng hiếm hoi.
Điều đáng nói trước tiên không phải là những hiện tượng tha hoá về nhân cách trong xã hội ta hôm nay. Điều đáng lo lắng hơn là xã hội chúng ta đã chưa tạo ra được một dư luận phê phán đủ mạnh để ngăn chặn những hiện tượng xuống cấp đạo đức như vậy và hậu quả là những hiện tượng “đồi phong bại tục” như vậy cứ ngang nhiên tồn tại, như “chọc tức”, như “trêu ngươi” mọi người! Sự bàng quan, thờ ơ theo kiểu “mũ ni che tai” này dù muốn hay không cũng là sự đồng loã với cái ác.
Bao trùm lên các hiện tượng tiêu cực ấy có thể nói là sự khủng hoảng lòng tin - con người không còn lí tưởng sống đúng đắn, mất định hướng giá trị. Không ít người trở thành tín đồ mù quáng của các dị giáo, của các thứ mê tín dị đoan đang có chiều hướng sinh sôi như nấm sau mưa (Những dãy xe máy, xe con biển trắng và cả biển xanh nối đuôi nhau hàng cây số trên đường vào xin lễ đền Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh là một minh chứng đáng buồn!).
Cùng với sự vận hành của cơ chế thị trường, của quá trình mở cửa, rõ ràng là toàn cầu hoá đang đem lại những thách thức gay gắt cho văn hoá dân tộc.
Toàn cầu hoá, như đã nói là một quá trình tất yếu, khách quan. Nó diễn ra ở mọi quốc gia trên Trái Đất này, không một dân tộc nào có thể bị cám dỗ bởi một thứ “chủ nghĩa biệt lập” nào đó mà đứng ra một bên, tránh được quá trình này động chạm tới mình. Điều quan trọng là chủ động đón nhận nó, có những đối sách thích hợp để phát huy mặt tích cực, hạn chế các tiêu cực mà nó có thể mang lại.
Như một cơ thể cường tráng có thể chống lại được mọi bệnh tật, dân tộc ta cần tự tìm trong chính mình những sức mạnh nội sinh để đứng vững trước các thử thách của toàn cầu hoá. [...]
Toàn cầu hoá chứa đựng thời cơ và những thách thức to lớn. Trong tiến trình lịch sử của mình, dân tộc ta đã tỏ rõ khả năng luôn biết đón nhận những thời cơ thuận lợi và vượt lên trên các thách thức để đi tới.
Thế kỉ XXI sắp tới. Thế giới sẽ chuyển động mạnh hơn bao giờ hết trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập. Chúng ta tin chắc rằng dân tộc Việt Nam sẽ khẳng định được chỗ đứng vững vàng của mình trong trào lưu đó với tất cả bản lĩnh sâu xa của nền văn hoá lâu đời, được tiếp thêm sức mạnh của thời đại, sức mạnh của lí tưởng độc lập dân tộc và công bằng xã hội.
(Theo Một góc nhìn của tri thức, tập một, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002)
Trong những nhận định sau, nhận định nào đúng, nhận định nào sai khi nói về tính khẳng định, phủ định trong văn bản "Toàn cầu hóa và bản sắc văn hóa dân tộc"?
(Nhấp vào ô màu vàng để chọn đúng / sai)a) Sử dụng nhiều câu văn phủ định và ít câu văn khẳng định. |
|
b) Dùng câu văn phủ định nhằm khẳng định cho ý kiến ở câu sau. |
|
c) Sử dụng nhiều câu văn khẳng định và ít vế câu phủ định. |
|
d) Dùng vế câu phủ định nhằm nhấn mạnh cho ý kiến ở vế sau. |
|
Bấm chọn những ngôn ngữ biểu cảm được sử dụng trong đoạn trích dưới đây.
"Ngoài mặt thuận của quá trình này, điều chúng ta cần hết sức quan tâm là mặt nghịch của nó, nhất là khi quá trình toàn cầu hoá diễn ra đồng thời với tiến trình mở cửa về kinh tế - văn hoá của nước ta, đồng thời với tiến trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ kế hoạch hoá - tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở đây, có thể nói mặt trái của toàn cầu hoá đã có “mảnh đất thích hợp” để nảy nở sinh sôi, là mặt trái của cơ chế thị trường tồn tại ở nước ta."
(Phan Hồng Giang)
Toàn cầu hóa và bản sắc văn hóa dân tộc
Có thể đồng ý với nhận xét của nhà báo Rô-bớt J. Sa-mu-ơn-sân (Robert J. Samuelson) khi ông cho rằng: “Toàn cầu hoá là cách gọi mới cho một quá trình cũ.”
Trải qua mấy ngàn năm, thế giới đã phát triển chính là bằng con đường mở rộng quan hệ giao lưu về mọi mặt, từ kinh tế đến văn hoá giữa các nước, các khu vực. “Con đường tơ lụa” xuyên Á qua núi cao và sa mạc, các tuyến hàng hải giữa các nước, các châu lục từ khi có thuyền buồm và la bàn,... có thể coi là những bằng chứng hiển nhiên đầu tiên của cái gọi là quá trình “giao lưu quốc tế” trên phạm vi toàn thế giới đó. Từ mấy thế kỉ trước, có thể nói Hội An, Phố Hiến,... đã là những “thành phố mở cửa” đầu tiên của nước ta...
Tuy nhiên, trong một vài thập kỉ trở lại đây, rõ ràng đã xuất hiện nhu cầu gọi tiến trình giao lưu quốc tế đó bằng một cái tên mới là “toàn cầu hoá” bởi những biểu hiện mang tính “bùng nổ” của tiến trình này: đó là sự xuất hiện “đại trà” của các “xa lộ thông tin” trên toàn thế giới, sự mở rộng nhanh chóng của quá trình “tự do hoá thương mại”, sự sáp nhập các công ty liên quốc gia hùng mạnh trong các lĩnh vực tin học, truyền thông, chế tạo xe hơi,... sự nhất thể hoá về kinh tế - tài chính ở các khu vực, v.v. diễn ra trong bối cảnh “hậu chiến tranh lạnh” và sự phát triển như vũ bão của kĩ thuật công nghệ hiện đại,...
Đặc biệt trên lĩnh vực văn hoá, quá trình “toàn cầu hoá” diễn ra thật sự sôi động với sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện truyền thông đại chúng và sự bùng nổ của các ngành công nghiệp văn hoá. [...]
Như mọi hiện tượng đều có hai mặt phải - trái, thuận nghịch, toàn cầu hoá, theo chữ dùng của tác giả R.J. Sa-mu-ơn-sân đã nhắc ở trên, là một “thanh gươm hai lưỡi”. “Một mặt nó là cỗ xe có động cơ mạnh làm tăng tốc độ phát triển kinh tế, mở ra kĩ thuật mới và tăng sức sống ở cả những nước giàu lẫn nước nghèo. Mặt khác, nó cũng là một tiến trình đầy tranh cãi tiến công vào chủ quyền quốc gia, làm xói mòn nền văn hoá và truyền thống địa phương, đe doạ sự ổn định kinh tế và xã hội.”.
Có thể nói, lĩnh vực văn hoá là lĩnh vực chịu tác động hai mặt, dễ nhận thấy nhất của quá trình toàn cầu hoá.
Trong bài “Giao lưu văn hoá và việc bảo vệ bản sắc dân tộc” đăng trên trang nhất, báo Nhân Dân (9 - 1 - 2000), nhà báo Thái Bảo có đưa ra một nhận xét: Trong cách hiểu hiện nay về giao lưu văn hoá còn có “điều chưa thật khách quan là những lệch lạc và tiêu cực trong giao lưu văn hoá quốc tế thường bị phê phán, trong khi đó những mặt tích cực của nó dường như ít được nhấn mạnh”.
Từ bao đời nay, nền văn hoá nước ta không chỉ là thành quả của hàng ngàn năm chiến đấu giữ nước và lao động sáng tạo dựng nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam mà còn là kết quả của các quá trình hấp thụ tinh hoa của nhiều nền văn hoá, văn minh thế giới. Sự gặp gỡ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội, giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin (Marx - Lenin) diễn ra trong thế kỉ XX ở nước ta đem lại những thay đổi cơ bản trong số phận lịch sử của dân tộc, là một biểu hiện đầy sức thuyết phục về mặt tích cực của sự giao lưu văn hoá nói trên. Trong bối cảnh có thể nói là có sự khủng hoảng lí luận ở phạm vi toàn cầu về con đường đi sắp tới của các dân tộc, sự kiện này là một điểm sáng đáng lưu ý.
Trong quá trình toàn cầu hoá, về mặt văn hoá, chúng ta cần thấy những thời cơ tốt để mở rộng cửa “đón nắng gió” bốn phương: tăng thêm tính hiện đại của văn hoá (để dứt bỏ những gì là cổ hủ, thủ cựu - hệ quả của một nền sản xuất nhỏ, phân tán), mở rộng và đào sâu thêm các giá trị nhân văn - dân chủ - quốc tế của văn hoá (để loại trừ những tàn dư của ý thức hệ phong kiến, gia trưởng), tiếp thu tính công nghiệp, tính khoa học, tính kỉ cương trong công việc và sinh hoạt giao tiếp cộng đồng (để dứt khoát chia tay với thói quen sống theo “lệ làng” coi thường “phép nước”, thói quen dềnh dang, thù tạc, không biết tiếc thời giờ,...), tiếp cận những thành tựu to lớn của công nghệ kĩ thuật mới trên các lĩnh vực truyền thông, truyền hình, in ấn, sản xuất băng đĩa âm thanh và hình ảnh, sản xuất các phương tiện nghe - nhìn, đổi mới và đa dạng hoá các loại hình nghệ thuật,...
Sức hấp dẫn của những loại hình hoạt động văn hoá, biểu diễn nghệ thuật, vui chơi giải trí cũng như lối sống tiện nghi, hiện đại từ các nước phát triển đối với nhiều người dân nước ta, nhất là đối với lớp trẻ, là điều dễ nhận thấy, có thể nói là đã và đang diễn ra phần nào độc lập với ý muốn chủ quan của chúng ta, đặc biệt là của những người đứng tuổi.
Ngoài mặt thuận của quá trình này, điều chúng ta cần hết sức quan tâm là mặt nghịch của nó, nhất là khi quá trình toàn cầu hoá diễn ra đồng thời với tiến trình mở cửa về kinh tế - văn hoá của nước ta, đồng thời với tiến trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ kế hoạch hoá - tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở đây, có thể nói mặt trái của toàn cầu hoá đã có “mảnh đất thích hợp” để nảy nở sinh sôi, là mặt trái của cơ chế thị trường tồn tại ở nước ta.
Chưa có thời kì nào trong lịch sử nước ta, sức lao động sáng tạo của mỗi con người lại có dịp được phát triển đầy hứa hẹn, xã hội trở nên cởi mở, năng động hơn. Nhưng bên cạnh mặt được rất cơ bản đó cũng có thể nói chưa bao giờ những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc lại phải chịu những tác động xói mòn mạnh mẽ, gay gắt như hiện nay. Nhiều tệ nạn xã hội phát triển như các đại dịch thời Trung cổ. Chỉ hơn mười năm qua, thời gian chưa đủ để một thế hệ sinh ra và trưởng thành, chúng ta có thể thấy, đặc biệt là ở các thành phố, các thị xã, thị tứ,... khá phổ biến một lối sống thực dụng, chạy theo tiện nghi vật chất, tôn thờ đồng tiền, sùng ngoại, coi nhẹ các giá trị lí tưởng, đạo đức của ông cha,... Nhiều sinh hoạt văn hoá, từ lễ hội đến biểu diễn nghệ thuật, bị nhuốm màu thương mại hóa. Các loại hình nghệ thuật, ca nhạc phương Tây ngày càng có nhiều thanh niên hâm mộ, tôn sùng, trong khi các loại hình nghệ thuật cổ truyền như chèo, tuồng, cải lương,... ngày càng thưa vắng người xem. Lớp trẻ lớn lên, nhiều em không còn biết hát dân ca, các bà mẹ không còn biết hát ru,... Thói đua đòi ăn chơi theo kiểu sống gấp “sống hôm nay không biết có ngày mai”, sống xa hoa, vô lối bằng đồng tiền phi lao động đã không còn là hiện tượng hiếm hoi.
Điều đáng nói trước tiên không phải là những hiện tượng tha hoá về nhân cách trong xã hội ta hôm nay. Điều đáng lo lắng hơn là xã hội chúng ta đã chưa tạo ra được một dư luận phê phán đủ mạnh để ngăn chặn những hiện tượng xuống cấp đạo đức như vậy và hậu quả là những hiện tượng “đồi phong bại tục” như vậy cứ ngang nhiên tồn tại, như “chọc tức”, như “trêu ngươi” mọi người! Sự bàng quan, thờ ơ theo kiểu “mũ ni che tai” này dù muốn hay không cũng là sự đồng loã với cái ác.
Bao trùm lên các hiện tượng tiêu cực ấy có thể nói là sự khủng hoảng lòng tin - con người không còn lí tưởng sống đúng đắn, mất định hướng giá trị. Không ít người trở thành tín đồ mù quáng của các dị giáo, của các thứ mê tín dị đoan đang có chiều hướng sinh sôi như nấm sau mưa (Những dãy xe máy, xe con biển trắng và cả biển xanh nối đuôi nhau hàng cây số trên đường vào xin lễ đền Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh là một minh chứng đáng buồn!).
Cùng với sự vận hành của cơ chế thị trường, của quá trình mở cửa, rõ ràng là toàn cầu hoá đang đem lại những thách thức gay gắt cho văn hoá dân tộc.
Toàn cầu hoá, như đã nói là một quá trình tất yếu, khách quan. Nó diễn ra ở mọi quốc gia trên Trái Đất này, không một dân tộc nào có thể bị cám dỗ bởi một thứ “chủ nghĩa biệt lập” nào đó mà đứng ra một bên, tránh được quá trình này động chạm tới mình. Điều quan trọng là chủ động đón nhận nó, có những đối sách thích hợp để phát huy mặt tích cực, hạn chế các tiêu cực mà nó có thể mang lại.
Như một cơ thể cường tráng có thể chống lại được mọi bệnh tật, dân tộc ta cần tự tìm trong chính mình những sức mạnh nội sinh để đứng vững trước các thử thách của toàn cầu hoá. [...]
Toàn cầu hoá chứa đựng thời cơ và những thách thức to lớn. Trong tiến trình lịch sử của mình, dân tộc ta đã tỏ rõ khả năng luôn biết đón nhận những thời cơ thuận lợi và vượt lên trên các thách thức để đi tới.
Thế kỉ XXI sắp tới. Thế giới sẽ chuyển động mạnh hơn bao giờ hết trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập. Chúng ta tin chắc rằng dân tộc Việt Nam sẽ khẳng định được chỗ đứng vững vàng của mình trong trào lưu đó với tất cả bản lĩnh sâu xa của nền văn hoá lâu đời, được tiếp thêm sức mạnh của thời đại, sức mạnh của lí tưởng độc lập dân tộc và công bằng xã hội.
(Theo Một góc nhìn của tri thức, tập một, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002)
Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống.
Văn bản "Toàn cầu hóa và bản sắc văn hóa dân tộc" của tác giả Phan Hồng Giang là một văn bản nghị luận bàn về vấn đề trong đời sống của chúng ta. Hiện nay, quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra hết sức và có tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực. Chính vì vậy, tác giả Phan Hồng Giang đã đặt ra vấn đề , đó là: Phải nhận thức và tiếp nhận toàn cầu hóa như thế nào để không làm bản sắc văn hóa của dân tộc.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây