Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Lời nhận xét nào không đúng về truyện trung đại?
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Truyện Con hổ có nghĩa thuộc loại truyện nào?
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Lời nhận xét nào dưới đây không chính xác về "Con hổ có nghĩa"?
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Thủ pháp nghệ thuật cơ bản bao trùm truyện Con hổ có nghĩa là?
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Truyện Con hổ có nghĩa nêu ra nhằm mục đích gì?
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Chi tiết nào dưới đây nói chính xác nhất sự việc bác tiều phu cứu nguy cho con hổ?
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Chi tiết nào thể hiện rõ nhất cái nghĩa của con hổ thứ nhất?
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Chi tiết nào không nói lên cái nghĩa của con hổ thứ hai?
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Truyện con hổ thứ hai so với truyện con hổ thứ nhất có thêm nét nghĩa gì?
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Truyện "Con hổ có nghĩa" đề cao triết lí sống nào?
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Sắp xếp diễn biến câu chuyện sau theo thứ tự:
- Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu.
- Tới nơi, hổ thả bà xuống.
- Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi.
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Bà đỡ Trần giúp con hổ thứ nhất làm điều gì?
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Chi tiết nào sau đây cho thấy con hổ thứ nhất hiện lên như con người?
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Sắp xếp các hành động của hổ đực theo thứ tự:
- Vẫy đuôi, vẻ tiễn biệt, rất chu đáo, có lễ nghi.
- Mừng rỡ, đùa giỡn với con.
- Cầm tay bà, nhìn hổ cái nhỏ nước mắt.
- Đào cục bạc tặng bà đỡ.
- Gõ cửa cổng bà đỡ
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Con hổ thứ nhất báo ơn bà đỡ Trần vật gì?
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Con hổ trong câu chuyện thứ hai gặp phải tình huống gì?
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Người giúp con hổ thứ hai là ai?
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Khi bị con hổ bắt đi, tâm trạng của bà đỡ Trần như thế nào?
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Vì nguyên nhân gì bác tiều có dũng cảm giúp con hổ thứ hai?
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Nối cho đúng:
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Biện pháp nghệ thuật nổi bật nhất được sử dụng trong câu chuyện trên là gì?
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Sắp xếp thứ tự diễn biến của câu chuyện sau cho đúng:
- Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng quay về.”
- Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt. Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi.
- Hổ đực mừng rỡ, quỳ xuống đào lên cục bạc tặng bà đỡ Trần rồi đưa bà ra khỏi rừng.
- Bà nhìn kĩ thì biết hổ cái sắp đẻ. Bà liền hòa thuốc cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được.
- Thấy hổ cái lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, sợ không dám nhúc nhích.
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Sắp xếp diễn biến câu chuyện cho đúng thứ tự:
- Bác tiều thò tay vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò to. Bác tiều nhắc hổ hễ có miếng ngon thì nhớ tới mình.
- Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
- Bác tiều ra về. Trong đêm nghe thấy có tiếng gầm. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó.
- Mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi người làng chôn cất, hổ đến trước mộ nhảy nhót, dụi đầu vào quan tài, gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi.
- Bác tiều uống rượu say, mạnh bạo đề nghị giúp con hổ bị hóc xương. Hổ nằm phục xuống nhờ bác tiều giúp.
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Hành động báo ơn của con hổ thứ hai có gì khác so với con hổ thứ nhất?
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Hoàn thành đoạn văn sau:
Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc , to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ, hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi , hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào , gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Em rút ra bài học gì từ câu chuyện trên?
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Trong câu chuyện trên có mấy con hổ có nghĩa?
CON HỔ CÓ NGHĨA(1)
(Truyện trung đại Việt Nam(*))
Bà đỡ(2) Trần là người huyện Đông Triều(3). Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng(4) quay về.” Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt(5). Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ(6) ở huyện Lạng Giang(7), đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng(8) phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều(9) uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương cho.” Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ(10), hễ được miếng lạ gì thì nhớ nhau nhé.” Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài(11), gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
(Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, trong sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I,
Nguyễn Đăng Na tuyển chọn và giới thiệu, Hoàng Trung dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)
Chú thích
(*) Trong chương trình Ngữ văn 6, có hai truyên: Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng được gọi chung là truyện trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam, thời trung đại (thường được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), thể loại truyện văn xuôi chữ Hán đã ra đời có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại. Ở đây vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện hầu hết còn đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Riêng truyện Mẹ hiền dạy con (trích Liệt nữ truyện) của Trung Quốc ra đời sớm hơn nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau.
(1) Nghĩa: lẽ phải, làm khuôn phép cư xử trong quan hệ giữa con người với nhau; theo từng hoàn cảnh, có thể mang nhiều nội dung cụ thể khác nhau như "tình cảm thủy chung", "tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung",... ở đây là "lòng biết ơn".
(2) Bà đỡ: người phụ nữ làm nghề đỡ đẻ (từ Hán: nữ hộ sinh).
(3) Đông Triều: một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc nước ta.
(4) Chúa rừng: con vật được coi là mạnh nhất ở rừng, có khi gọi là chúa sơn lâm; ở đây chỉ loài hổ.
(5) Tiễn biệt: tiễn người đi xa.
(6) Mỗ: từ phiếm chỉ, dùng trong trường hợp không muốn nêu tên thật. Nói "tên mỗ" giống như ngày nay nói rên A, B,... nào đó.
(7) Lạng Giang: một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang.
(8) Thung lũng: dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi.
(9) Tiều: người đốn củi.
(10) Thôn mỗ: cách dùng từ phiếm chỉ giống như "tên mỗ" ở chú thích (6).
(11) Quan tài: cái hòm để đặt người chết vào.
Văn bản trên thuộc thể loại nào?
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây