Câu 6 (trang 50, SGK Ngữ Văn 10, tập một)
Đề bài: Em hãy chuyển các câu thơ tả cảnh mùa thu trong bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến thành một đoạn văn miêu tả (khoảng 8-10 dòng).
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
– Bố cục: 2 phần
+ Phần 1 (6 câu thơ đầu): Cảnh mùa thu ở vùng quê Bắc bộ.
+ Phần 2 (2 câu thơ cuối): Hình ảnh, tâm trạng của nhân vật trữ tình.
– Hoàn cảnh sáng tác
+ Câu cá mùa thu nằm trong chùm ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến gồm: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh.
+ Được viết trong thời gian khi Nguyễn Khuyến về ở ẩn tại quê nhà.
a. Câu 1 và 2 (Câu đề)
– Hình ảnh: ngọc lộ, phong thụ lâm – Là những hình ảnh quen thuộc của mùa thu Trung Quốc:
+ “Ngọc lộ: Miêu tả hạt sương móc trắng xóa, dầy đặc làm tiêu điều, hoang vu cả một rừng phong. Bản dịch thơ dịch thanh thoát nhưng chưa truyền tải đầy đủ nội dung, ý nghĩa thần thái của nguyên tác.
+ “Phong thụ lâm”: hình ảnh thường được dùng để tả cảnh sắc mùa thu và nỗi sầu li biệt
– “Núi vu, kẽm vu”: Là hai địa danh cụ thể ở Trung Quốc, vào mùa thu khí trời âm u, mù mịt. Bản dịch thơ là “ngàn non”: Đánh mất hai địa danh cụ thể lại không diễn tả được hết không khí của mùa thu.
– “Khí tiêu sâm”: Hơi thu hiu hắt, ảm đạm
→ Không gian thiên nhiên vừa có chiều cao vừa có chiều rộng và chiều sâu, không gian lạnh lẽo xơ xác, tiêu điều, ảm đạm
→ Diễn tả cảm xúc buồn, cô đơn, lạnh lẽo của tác giả
b. Câu 3 và 4 (Câu thực)
– Điểm nhìn từ lòng sông đến miền quan ải, không gian được nới theo ba chiều rộng, cao và xa:
+ Tầng xa: là ở giữa dòng sông thăm thẳm là “sóng vọt lên tận lưng trời”
+ Tầng cao: Là miền quan ải với hình ảnh mây sa sầm giáp mặt đấy.
+ Tầng rộng: mặt đất, bầu trời, dòng sông đều cho ta hình dung về không gian rộng lớn.
– Hình ảnh đối lập, phóng đại: sóng – vọt lên tận trời (thấp – cao), mây – sa sầm xuống mặt đất (cao – thấp)
→ Sự vận động trái chiều của những hình ảnh không gian kì vĩ, tráng lệ.
→ Tâm trạng con người ngột ngạt, bí bách
→ Bốn câu thơ vẽ lên bức tranh mùa thu xơ xác, tiêu điều, mênh mông, rợn ngợp chao đảo. Đó phải chăng cũng là bức tranh của xã hội Trung Quốc đương thời loạn lạc bất an, chao đảo
→ Tâm trạng buồn, cô đơn, chênh vênh lo lắng của tác giả trước thời cuộc.
Các chi tiết miêu tả mùa thu:
- Sương móc trắng xóa
- Thu hiu hắt
- Mây sa sầm giáp mặt đất
- Sóng vọt lên tận lưng trời con thuyền lẻ loi buộc mãi tấm lòng
- Rộn ràng dao thước để may áo rét.
- Cõi lòng nhà thơ đã hòa vào trời thu, cảnh thu. Cảnh thu rất đẹp, rất sinh động. Phải yêu thiên nhiên, đất nước thì tác giả mới vẽ ra được một bức tranh thiên nhiên cảnh thu với màu sắc sống động, tươi sáng, mang một nét đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc Bộ.
- Đặc biệt, hai câu thơ cuối thể hiện tấm lòng của nhà thơ:
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
→ Tác giả đi câu cá nhưng thực chất là suy tư, ngẫm ngợi về chuyện dân, chuyện nước, về nhân tình thế thái. Tác giả tuy ở ẩn nhưng không quay lưng với cuộc đời, vẫn nặng lòng với thời cuộc, với đất nước.
Đăm Săn khiêu chiến. Mtao Mxây ban đầu ngạo nghễ, sau đó lại tỏ ra hèn nhát, sợ bị Đăm Săn đâm khi đang đi xuống. Đăm Săn khẳng định không bao giờ làm việc xấu xa đó, Mtao Mxây mới dám đi xuống. Trong hiệp đấu thứ nhất, cả hai bên lần lượt múa khiên. Trong khi Mtao Mxây múa tỏ ra yếu ớt và kém cỏi thì Đăm Săn múa khiên lại vô cùng mạnh mẽ, tài giỏi hơn,vẫn giữ thái độ bình tĩnh, thản nhiên. Kết quả hiệp đấu đầu tiên là Mtao Mxây chạy khắp nơi để tránh đường khiên Đăm Săn múa. Chàng đâm trúng Mtao Mxây nhưng không thủng. Đến hiệp đấu thứ hai, Đăm Săn được trời mách bảo, chàng cái chày mòn trúng tai Mtao Mxây. Đăm Săn múa khiên sức mạnh như gió bão. Cây giáo đâm liên tiếp Mtao Mxây nhưng không thủng. Cuối cùng sau hai hiệp đấu Mtao Mxây van nài Đăm Săn để được sống. Đăm Săn không tha thứ cho những tội ác hắn đã gây ra, đã cắt đầu hắn đem bêu ngoài đường. Dân làng Mtao Mxây nhất loạt theo Đam Săn về ngôi làng mới.