Phần I. Trắc nghiệm
Đâu không phải là những hình ảnh, hiện tượng của đất trời khi chuyển mình sang thu trong cảm nhận của nhà thơ Hữu Thỉnh?
A. Hương ổi phả trong gió se
B. Lá vàng rơi
C. Dòng sông bắt đầu vội vã
D. Đám mây hạ - thu
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Sự biến đổi của đất trời sang thu được cảm nhận từ sự tinh tế của tác giả:
+ Bỗng: sự ngạc nhiên, bâng khuâng trước sự biến đổi của đất trời
+ Hương ổi phả trong gió se
+ Sương chùng chình qua ngõ
- Khoảnh khắc giao mùa mang tới cảm nhận ngỡ ngàng, xao xuyến trong tâm trạng tác giả
- Nhà thơ gợi tả sự biến chuyển khoảnh khắc sang thu bằng nhiều yếu tố, nhiều giác quan:
+ Chim vội vã, sông dềnh dàng
+ Đám mây mùa hạ "vắt nửa mình sang thu"- hình ảnh giàu sức biểu cảm
→ Cảm nhận tinh tế, có chọn lọc của nhà thơ thông qua những quan sát chân thực
Biến chuyển trong không gian lúc sang thu được Hữu Thỉnh cảm nhận qua nhiều yếu tố, bằng nhiều giác quan và sự rung động thật tinh tế:
- Hương ổi lan vào không gian, phả vào gió se.
- Sương đầu thu giăng mắc nhẹ nhàng gợi lên vẻ đẹp êm dịu của bức tranh thiên nhiên, những cánh chim bắt đầu vội vã ở buổi hoàng hôn.
- Cảm giác giao mùa được diễn tả thú vị qua đám mây mùa hạ "vắt nửa mình sang thu".
- Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng nhạt dần. Những ngày giao mùa này đã ít những cơn mưa rào ào ạt, bất ngờ.
- Lúc này cũng bớt đi những tiếng sấm bất ngờ gắn cùng những cơn mưa rào mùa hạ thường có.
- Cần cảm nhận được sự tinh tế của nhà thơ thể hiện trong những từ ngữ diễn tra cảm giác, trạng thái: bỗng, phả vào, chùng chình, hình như, dềnh dàng, vắt nửa mình…
a ,
Bài làm:Đoạn 1: Qua những lời ru quen thuộc, thắm thiết của mẹ, hình ảnh “con cò” đã đến với tâm hồn tuổi ấu thơ một cách vô thức. Những câu ca dao thể hiện ý nghĩa phong phú của biểu tượng con cò: đó là hình ảnh bình dị đặc trưng của làng quê Việt Nam.
Đoạn 2: Con cò trở thành biểu tượng của lòng mẹ bền bỉ, dịu dàng với con. Cánh cò trở thành người bạn đồng hành suốt cuộc đời con từ khi trong nôi cho đến lúc con trưởng thành.
Đoạn 3: Hình tượng con cò được khai thác ở ý nghĩa tượng trưng cho tấm lòng người mẹ lúc nào cũng theo sát bên con. Dù là ở đâu, dù là lúc nào, dù là cuộc sống có nhọc nhằn ra sao thì mẹ vẫn luôn ở bên con. Hình tượng ấy được nhà thơ nhấn mạnh, khái quát thành một quy luật sâu sắc, bền vững của tình mẫu tử.
b ,
Hình ảnh ẩn dụ “mặt trời”, “tràng hoa” “vầng trăng” trong Viếng lăng Bác Bài thơ Viếng lăng Bác sáng tác 1976, một năm sau khi đất nước thống nhất, lăng bác được xây dựng xong và đồng bào miền Nam có thể thực hiện mong ước ra viếng Bác. Viễn Phương là 1 trong những thế hệ đồng bào miền Nam đầu tiên được ra Hà Nội viếng thăm Người. Bài thơ Viếng lăng Bác là 1 bài thơ hay nhờ xây dựng được những hình ảnh tiêu biểu đặc sắc “ Mặt trời, Vầng trăng, Tràng hoa”. Những hình ảnh này góp phần quan trọng trong việc biểu hiện tình cảm, cảm xúc của nhà thơ và của mọi người đối với Bác Hồ làm nổi bật nội dung tư tưởng tác phẩm. Nhà thơ xây dựng hình ảnh ấy trong khổ thơ thứ 2 và 3: “ Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ. Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân… Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim” Bao trùm bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng thầm kính, lòng biết ơn và xen lẫn nỗi đau xót khi tác giả vào lăng viếng Bác. Cảm xúc đó được thể hiện theo trình tự cuộc vào lăng viếng Bác sau nỗi niềm xúc động :“ Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”.Trước lăng Người, nhà thơ cảm nhận hình ảnh lăng Bác với tất cả niềm thành kính: “ Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ” Với hình ảnh Mặt trời, nhà thơ vừa sử dụng biện pháp nhân hoá “mặt trời đi qua”( ở câu thứ nhất) vừa sử dụng biện pháp ẩn dụ “thấy”(ở câu thứ 2). Với phép ẩn dụ bằng việc ngầm so sánh hình ảnh Bác Hồ với hình ảnh Mặt trời, nhà thơ đã nói lên công ơn trời biển của Bác đối với dân tộc. Nếu mặt trời tự nhiên mang ánh sáng, sự ấm áp đến cho vũ trụ thì hình ảnh Bác mang đến cho dân tộc nền tự do, độc lập. Ý thơ đồng thời ngợi ca sự vĩ đại của Người, thể hiện lòng thành kính với vị cha già. Hơn thế nữa với phép nhân hoá, nhà thơ gợi 1 sự liên tưởng rất táo bạo. Mặt trời của tự nhiên cũng phải kính cẩn ngắm nhìn mặt trời của dân tộc- chủ tịch Hồ Chí Minh. Và như thế cũng có thể hiểu mặt trời trong lăng còn vĩ đại hơn mặt trời vẫn ngày ngày đi trên bầu trời cao rộng. Dưới ánh mặt trời, ngày ngày vẫn nối nhau những dòng người đi trong thương nhớ vào lăng viếng Bác. Dòng người đi trong thương nhớ là thực “ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân” lại là 1 liên tưởng đẹp và rất sáng tạo thể hiện sâu sắc những tình cảm thành kính, thiêng liêng của nhân dân đối với Bác. Dòng người vào lăng viếng Bác đến từ nhiều vùng miền, nhiều dân tộc. Mỗi người mang 1 bông hoa của lòng thành kính, yêu thương. Cả dòng người kết thành tràng hoa rực rỡ huy hoàng. Hình ảnh tràng hoa đã trở thành hình ảnh ẩn dụ cho tấm lòng, cho sự kính yêu, niềm ngưỡng vọng lãnh tụ. Bước vào trong lăng, nhà thơ càng bồi hồi xúc động trước hình ảnh: “ Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền” Hình ảnh mặt trời rực rỡ trong lăng được thay bằng một liên tưởng ẩn dụ vầng trăng sáng dịu hiền. Sự thay đổi ấy thể hiện rất nhiều ý nghĩa, Bác không chỉ là 1 người chiến sĩ Cách mạng mà còn là ngọn đuốc soi đường cho dân tộc . Hình ảnh vầng trăng còn gợi ta nhớ đến những bài thơ tràn ngập ánh trăng của Người. Có thể nói 3 hình ảnh thơ “ tràng hoa, vầng trăng, mặt trời” là những hình ảnh ẩn dụ vô cùng đẹp đẽ, hàm xúc đã thể hiện cảm động tấm lòng thành kính thiêng liêng và niềm xúc động vô bờ của tác giả, của toàn dân tộc dành cho Bác kính yêu. Đó đồng thời cũng là những hình ảnh thơ đẹp nhất, giàu sức gợi cảm nhất trong thi phẩm đáng trân trọng này. c ,Khoảnh khắc giao mùa có lẽ là đẹp nhất của tự nhiên. Nó gieo vào lòng người những rung động nhịp nhàng khiến ta cũng như giao hoà, đồng điệu. Biết bao nhà thơ, nhà văn đã cảm nhận và ghi lại một cách rất tinh tế sự chuyển biến nhẹ nhàng mà rõ rệt đó. Khi chúng ta chưa hết ngỡ ngàng bởi một Xuân Diệu bâng khuâng, tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì thì đã gặp một Hữu Thỉnh tinh tế, sâu sắc đến vô cùng. Bài Sang thu của thi sĩ Hữu Thỉnh là sự cảm nhận như thế.
Bài thơ là sự chuyển động rất tinh tế của sự sống khi hạ dần qua và thu đang đến. Không như những nhà thơ khác cảm nhận mùa thu qua sắc vàng của hoa cúc, của lá ngô đồng hay qua tiếng lá khô xào xạc, Hữu Thỉnh đón nhận mùa thu bằng một hương vị đặc biệt - đó chính là hương ổi:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Giữa những âm thanh, màu sắc và hương vị đặc trưng của mùa thu đang lan toả, chỉ có hương ổi làm nhà thơ bất chợt xao lòng. Đó là một thứ hương vị không dễ dàng nhận ra. Bởi lẽ hương ổi không phải một hương thơm ngào ngạt, nồng nàn, mà nó thoảng đưa êm dịu trong gió đầu thu nhưng cũng đủ đánh thức xúc cảm trong lòng. Hữu Thỉnh gợi thật đúng, thật hay. Hương ổi không chỉ lan toả mà còn vận động rất mạnh trong không gian. Có lẽ đó là sức sống dạt dào mà mùa hạ muốn tặng cho mùa thu chăng?
Màn sương thu hình như cũng muốn tận hưởng trọn vẹn khoảnh khắc đó mà chùng chình chưa muốn tan đi:
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Không gian có sự hoà hợp giữa hương ổi dịu dàng, gió thu nhẹ nhẹ và sương thu mơ màng tạo nên một ấn tượng đặc biệt mà ta khó lòng quên được. Chùng chình là sự rung rinh, lay động của làn sương hay cũng chính là sự rung động trong tâm hồn nhà thơ Hữu Thỉnh? Có lẽ là cả hai. Vạn vật trong thời khắc chuyển mùa vì thế càng trở nên duyên dáng, nhịp nhàng. Cảm quan tinh tế của nhà thơ đã phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng, rất duyên đó để rồi xao xuyến: Hình như thu đã về. Lời reo vui cũng thì thầm nhỏ nhẹ, bâng khuâng vang lên trong lòng Hữu Thỉnh như bước đi của mùa thu.
Để dòng cảm xúc trôi theo thời gian, cảm nhận rõ hơn bước đi của sự sống, nhà thơ lại tiếp tục quan sát:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Nếu như khổ thơ thứ nhất, thu mới chỉ là sự đoán định (Hình như thu đã về) thì ở khổ thơ này nó đã trở thành sự khẳng định. Đó là hình ảnh đám mây mùa hạ vắt nửa mình sang thu. Mùa thu đã đến thật rồi! Thu không còn là sự mong đợi, đoán định. Thu hiển hiện trong cuộc sống, trên cỏ cây hoa lá và trong lòng người. Cũng như sương thu, dòng sông dường như cũng thong thả, chậm chạp hơn. Như hút vào lòng mình tất cả niềm sung sướng, thoả thê của cuộc sống để dềnh lên những con nước mát lành. Mọi chuyển động có vẻ rất đều đều, rất nhẹ, riêng có cánh chim là vội vã cuống quýt. Sự vội vàng đó phải chăng cũng là sự vội vàng trong tâm hồn Hữu Thỉnh, muốn được mở rộng lòng mình đón nhận mọi rung động dù là nhỏ nhất? Điểm nhìn của nhà thơ như được nâng dần từ dòng sông, cánh chim đến bầu trời cao rộng:
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Lại một sự biến chuyển khác trong khoảnh khắc giao mùa khiến lòng ta rung động. Đó không phải là lớp lớp mây cao đùn núi bạc hay mây biếc về đâu bay gấp gấp mà lại là đám mây mùa hạ - vắt nửa mình sang thu. Có thể là một đám, hai đám hay nhiều hơn nữa nhưng có lẽ trong Sang thu mây không thể nào lớp lớp mây cao dược. Vì mùa thu mới bắt đầu chưa thể nhuốm đượm lên lớp lớp sự vật. Hình ảnh đám mây là một phát hiện rất mới lạ và độc đáo của Hữu Thỉnh. Bức tranh chuyển mùa vì thế càng trở nên sinh động, giàu sắc gợi cảm.
Mỗi khổ thơ là một sự chuyển biến rất rõ của không gian. Bài thơ có tựa đề là Sang thu mà sao vẫn thấy phảng phất dấu hiệu mùa hè:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Dấu hiệu đó là nắng, mưa, sấm, nhưng đã là nắng, mưa, sấm cuối mùa. Ánh nắng chói chang ngày nào nay đã vơi dần cơn mưa trở nên mát mẻ, dễ chịu hơn nhiều. Hai câu thơ cuối cùng gợi cho ta nhiều suy nghĩ liên tưởng thú vị.
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là giọng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy nghĩ chiêm nghiệm về đời người. Mùa thu của thiên nhiên hay mùa thu của mỗi đời người? Nhìn cảnh vật biến chuyến khi thu mới bắt đầu, Hữu Thỉnh nghĩ đến cuộc đời khi đã đứng tuổi. Phải chăng mùa thu của đời người là sự khép lại những tháng ngày sôi nổi, với những bất thường của tuổi trẻ và mở ra một mùa mới, một không gian mới, yên tĩnh, trầm lắng hơn? Hai hình ảnh sấm và hàng cây đứng tuổi vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa tượng trưng cho thấy một Hữu Thỉnh rất đỗi tinh tế, nhạy bén trong cảm nhận và liên tưởng. Mùa thu thường không rạo rực, ấm áp như mùa xuân, không sôi động rộn ràng như mùa hạ, hay lạnh lẽo, thê lương như mùa đông. Thu đến rất nhẹ nhàng và đi rất lặng lẽ. Thu không đánh thức ta bằng những âm thanh vang động, màu sắc lộng lẫy, hương vị ngạt ngào mà reo vào lòng ta những thoáng xao động, mơ màng, gợi trong ta những suy nghĩ sâu xa về cuộc sống. Có lẽ vì thế mà thơ thu, trong đó có Sang thu của Hữu Thỉnh rất giàu ý nghĩa.
Mùa thu và thi sĩ từ lâu đã có duyên nợ nhưng không phải thu nào cũng như nhau, ví như bài Sang thu vậy. Nhà thơ Hữu Thỉnh nắm bắt hồn thu ngay trong khoảnh khắc chuyển mùa. Đó là những chuyển biến rất tinh vi mà phải có một tâm hồn thật tinh tế mới cảm nhận được. Có thể ta chưa thấy được hết vẻ đẹp của mùa thu trong bài thơ và thấu hiểu những gì mà nhà thơ muốn nhắn gửi nhưng Sang thu đã cho ta thấy sự vận động của cuộc sống quanh ta mà bấy lâu nay ta không hề biết tới. Càng yêu thơ thu ta càng trân trọng và cảm phục tâm hồn thi sĩ của Hữu Thỉnh và biết yêu quý hơn cuộc sống này.
Thảo PhươngTrần Thị Hà MyHoàng Minh NguyệtNguyenTrần Thọ ĐạtNguyễn Thu Hươngbuithianhthonguyen minh ngocAmi NgọcLinh PhươngHuỳnh lê thảo vytrần thị diệu linhAnh QuaNguyễn Minh HuyềnNguyễn Thu HươngNguyễn Trần Thành ĐạtNguyễn Phương ThảoĐỗ Hương GiangNguyễn Thị MaiNguyễn Thị Hồng Nhung
Tâm trạng bất ngờ, băn khoăn của tác giả về mùa thu vì ''hình như'' mùa thư đã về qua các dấu hiệu quen thuộc của miền quê Bắc Bộ
Với từ “phả” tác giả sẽ đặc tả hương thơm đậm như sánh lại, quện lại, lùa vào trong gió, làm cho nó trở nên thơm tho lạ thường, diễn đạt được sự việc : hương ổi đã truyền cho ta hơi ấm của tình cảm, hơi thở của cuộc sống.
còn từ "pha","tan","lan" là hòa quyện lại , nó sẽ không diễn đạt được điều mà tác giả muốn tả , muốn truyền đạt đến người đọc.
1.Tác giả:
- Nhà thơ Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh năm 1942, quê ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Năm 1963, Hữu Thỉnh nhập ngũ, vào binh chủng Tăng – Thiết giáp rồi trở thành cán bộ văn hóa, tuyên huấn trong quân đội và bắt đầu sáng tác thơ.
- Là nhà thơ viết nhiều, viết hay về những con người ở nông thôn, về mùa thu. Nhiều vần thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất trời trong trẻo, đang biến chuyển nhẹ nhàng.
- Ông đã tham gia Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khoa III,IV,V.
- Từ năm 2000, Hữu Thỉnh là Tổng thứ kí Hội Nhà văn Việt Nam.
2.Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- Bài thơ sáng tác năm 1977.
- In trong tập “Từ chiến hào đến thành phố”
b. Bố cục: 3 phần tương ứng với ba khổ thơ.
- Khổ 1: Những tín hiệu giao mùa
- Khổ 2: Bức tranh thiên nhiên lúc giao mùa
- Khổ 3: Những suy tư và chiêm nghiệm của nhà thơ.
c. Nội dung bao trùm:
Bài thơ thể hiện những cảm nhận tinh tế và giàu cảm xúc của một tâm hồn nhạy cảm trước sự biến đổi của thiên nhiên tạo vật lúc giao mùa ở vùng đồng bằng Bắc bộ. Thông qua đó biểu lộ sâu kín tình yêu thiên nhiên, cuộc đời, tha thiết với sự yên bình của quê hương, đất nước.
d. Nghệ thuật:
- Hình ảnh vừa gần gũi, thân thuộc, vừa mới mẻ, lạ lẫm.
- Ngôn từ giản dị mà gợi cảm, vừa miêu tả chính xác trạng thái của tạo vật, vừa thổi hồn vào tạo vật những cảm giác rất người.
- Thể thơ 5 chữ, cách thể hiện mộc mạc, tự nhiên như lối nói của người thôn quê.
- Mạch thơ: mạch chảy tự nhiên của cảm xúc: từ ngỡ ngàng, bâng khuâng trước những tín hiệu giao mùa nơi thôn xóm đến say mê trước những cảnh vật sang thu xa rộng, và rồi trầm ngâm trước những biến đổi bên trong của thiên nhiên và con người.
II.Đọc – hiểu văn bản:
“Sang thu” được viết vào cuối năm 1977, in lần đầu trên báo Văn nghệ, sau đó được tác giả chọn đưa vào một số tập thơ. Bài thơ cho thấy những cảm nhận tinh tế của Hữu Thỉnh về sự biến chuyển của đất trời từ hạ sang thu ở vùng đồng bằng nông thôn Bắc bộ. Đặc sắc nổi bật dễ thấy ở “Sang thu” là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa miêu tả và biểu cảm. Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình gắn liền với sự biến chuyển của thiên nhiên – thời điểm chuyển giao hai mùa làm nên kết cấu chặt chẽ của bài thơ; bài thơ cũng là mạch cảm xúc ngỡ ngàng đến suy tư của nhà thơ.
- Sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ về giây phút thu đã về (nhận ra qua khứu giác, xúc giác và thị giác: hương ổi, gió se và sương qua ngõ;Diễn đạt qua các từ ngữ: bỗng,nhận ra, phả, hình như, chùng chình…)
- Cảm nhận tinh tế của nhà thơ về biến chuyển trong không gian ( từ vườn, ngõ, sông , mây, sấm, hàng cây…)
- Chút nghĩ suy về con người và cuộc đời qua cách khép lại với hình ảnh tiếng sấm vừa thực vừa hàm ẩn suy tư.
Bài thơ tự nhiên, gợi cảm, giản dị và thi vị. Cảm xúc về sự chuyển mùa tinh tế. Qua bài thơ, thấy lòng yêu thiên nhiên quê hương và một tâm hồn có những trải nghiệm sâu sắc.
III.Một số dạng đề tự luận cơ bản:
Bài tập 1: Bằng đoạn văn khoảng 8 câu, hãy phân tích sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ về biến chuyển trong không gian lúc sang thu ở khổ thơ:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.
(Sang thu – Hữu Thỉnh)
Bài tập 2: Theo cách diễn dịch (hoặc qui nạp) viết đoạn văn cảm nhận vẻ đẹp của đoạn thơ sau:
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
(Sang thu – Hữu Thỉnh)
Bài tập 3: Viết đoạn văn khoảng 6 câu trình bày cách hiểu của em về hai câu thơ cuối bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh:
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Bài tập 4: Viết đoạn văn khoảng 6 câu giải thích ý nghĩa ẩn dụ của hình ảnh “tiếng sấm” trong câu thơ “Sấm cũng bớt bất ngờ/Trên hàng cây đứng tuổi”.
Bài tập 5: Mùa thu quê hương qua bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh.
Bài tập 6: Cảm nhận của em về khổ 1 và 2 trong bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Gió chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Bài tập 7: Phân tích cảm nhận tinh tế của nhà thơ Hữu Thỉnh trước những biến đổi của đất trời qua bài “Sang thu”.
Bài tập 8:
“Sang thu” của Hữu Thỉnh không chỉ có hình ảnh đất trời nên thơ mà còn có hình tượng con người trước những biến chuyển của cuộc đời ở thời khắc giao mùa.
Hãy phân tích bài thơ để làm sáng tỏ ý kiến trên.
Bài tập 9: Cảm nhận của em về vẻ đẹp bài thơ “Sang thu” (Hữu Thỉnh)
Bài tập 10:Cảm nhận của em về vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên lúc giao mùa trong đoạn thơ sau:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Gió chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
(Sang thu – Hữu Thỉnh)
Gợi ý và đáp án.
Bài tập 1:
*Về nội dung:
- Phân tích để thấy biến chuyển trong không gian được nhà thơ cảm nhận tinh tế qua hương ổi chín đậm, nồng nàn phả vào gió se, lan tỏa trong không gian và qua làn sương mỏng “chùng chình” chuyển động chầm chậm, nhẹ nhàng đầu ngõ, đường thôn.
- Trạng thái cảm giác về mùa thu đến của nhà thơ được diễn tả qua các từ: “bỗng”,”hình như” mở đầu và kết thúc khổ thơ, đó là sự ngạc nhiên thú vị như còn chưa tin hẳn.
*Về hình thức:
- Trình bày một đoạn văn khoảng 8 câu, có thể dùng đoạn diễn dịch, quy nạp, hoặc tổng – phân – hợp.
- Diễn đạt mạch lạc, tự nhiên, không mắc lỗi.
Đoạn văn mẫu:
Mở đầu “Sang thu” là những cảm nhận tinh tế, bất ngờ của nhà thơ Hữu Thỉnh trước không gian nơi đồng quê êm đềm, dịu dàng mà thơ mộng(1):
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.
Đặt từ “bỗng” ở đầu khổ thơ, tác giả cho thấy, mùa thu đến khá bất ngờ và đột ngột, dường như không hẹn trước(2). Bắt đầu mùa thu không phải là nét đặc trưng của trời mây hay sắc vàng hoa cúc như trong thơ cổ mà là “hương ổi” nơi vườn quê(3). Cái hương thơm nồng nàn ấy, thân thuộc ấy đang “phả vào trong gió se” – thứ gió heo may, khô lạnh, dịu dàng chỉ xuất hiện độ giao mùa ở miền Bắc(4). Dùng từ “phả” tác giả gợi hương thơm ngan ngát của ổi chín như lắng đọng, sánh lại, lan tỏa trong không gian, thấm vào tâm tưởng, đánh thức những kỉ niệm tuổi thơ(5). Từ láy gợi hình cùng nghệ thuật nhân hóa – “sương chùng chình qua ngõ” gợi hình ảnh làn sương duyên dáng, yểu điệu như đang đợi chờ, đang lưu luyến nửa ở, nửa đi(6). Bằng tất cả các giác quan: khứu giác, xúc giác, và thị giác, tác giả cảm nhận những nét đặc trưng của mùa thu đều hiện diện(7). Phút giây giao mùa của thiên nhiên, cảm thấy rồi, nhìn thấy rồi, vậy mà thi nhân vẫn sững sờ, khó tin: “Hình như thu đã về”.(8)
Bài tập 2: Đoạn văn có thể gồm các ý:
- Hình ảnh được cảm nhận tinh tế kết hợp với trí tưởng bay bổng của nhà thơ.
- Diễn tả hình ảnh đám mây mùa hạ còn sót lại trên bầu trời thu trong xanh, mỏng, kéo dài, nhẹ trôi rất hững hờ như còn vương vấn, lưu luyến không nỡ rời xa, cảnh có hồn.
- Đó là hình ảnh gợi cảm giác giao mùa, hạ đã qua mà thu chưa đến hẳn.
Bài tập 3: Viết đoạn văn:
Cần trình bày được cách hiểu hai câu thơ cả về nghĩa tả thực và nghĩa ẩn dụ:
- Tầng nghĩa thứ nhất (nghĩa tả thực): là hiện tượng sấm chớp và hình ảnh hàng cây trong mưa. Lúc sang thu, tiếng sấm dữ dội và những cơn mưa giông cũng bớt đi. Hàng cây không còn bị giật mình vì những tiếng sấm bất ngờ nữa.
- Tầng nghĩa thứ hai (nghĩa ẩn dụ): Thông qua hình ảnh có tính chất ẩn dụ, nhà thơ thể hiện suy ngẫm của mình về con người và cuộc đời: “Sấm” là những tác động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời ; “hàng cây đứng tuổi” chỉ những con người từng trải. Khi con người đã trưởng thành, đã trải nghiệm trong đường đời thì bản lĩnh càng vững vàng hơn trước những thử thách, những bão giông bất thường. Đó chính là sự khẳng định sức sống mãnh liệt của tâm hồn, dù đã “sang thu” những vẫn rạo rực và nồng nàn.
Bài tập 4: Tham khảo bài tập 3.
Bài tập 5:
I. Mở bài:
- Mở bài 1: Mùa thu luôn là đề tài, là cảm hứng quen thuộc lâu đời của thơ ca.Trong kho tàng dân tộc ta đã từng biết đến một mùa thu trong veo trong thơ Nguyễn Khuyến, thu ngơ ngác trong thơ Lưu Trọng Lư, dào dạt và đượm buồn trong thơ Xuân Diệu.Và thật bất ngờ khi ta gặp một Hữu Thỉnh tinh tế, sâu sắc đến vô cùng qua một thoáng “Sang thu”.
- Mở bài 2: Mùa thu bước vào thơ ca thật tự nhiên, gần gũi, trở thành một thi đề quen thuộc. Các bài thơ viết về đề tài này đều để lại trong lòng người đọc những ấn tượng khó phai. Nói đến mùa thu, ta không thể không nhắc tới chùm thơ ba bài “Thu điếu”, “Thu vịnh”, “Thu ẩm” của cụ Tam Nguyên Yên Đổ - Nguyễn Khuyến; không thể không xao xuyến với “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư, “Đây mùa xuân tới” của Xuân Diệu,… Là nhà thơ viết hay, viết nhiều về mùa thu với những cảm xúc bâng khuâng, vương vấn trước đất trời trong trẻo đang chuyển biến nhẹ nhàng, Hữu Thỉnh cũng góp vào thơ thu đất nước một “Sang thu” tinh tế mà sâu sắc.
II. Thân bài:
1.Khái quát( Dẫn dắt vào bài):
-“Sang thu” được viết vào cuối năm 1997, in lần đầu trên báo Văn nghệ, sau đó được tác giả chọn đưa vào một số tập thơ. Bài thơ cho thấy nét đặc trưng của mùa thu vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ lúc giao mùa, có chuyển biến nhẹ nhàng mà rõ rệt. Từ đó, mở rộng ra với những trải nghiệm về mùa thu đời người.
2. Cảm nhận về làng quê lúc sang thu:
- Mở đầu bài thơ là những cảm nhận tinh tế của nhà thơ về giây phút thu đã về:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”.
+ Mùa thu đến khá bất ngờ và đột ngột, dường như không hiện trước.Từ “bỗng” thông báo về sự xuất hiện đột ngột của sự vật trong không gian. Khác với những thi liệu thơ thu, dấu hiệu của mùa thu không phải là “Sen tàn, cúc lại nở hoa” như trong thơ Nguyễn Du;cũng không phải là “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang. Tóc buồn rơi xuống lệ ngàn hàng” như trong thơ Xuân Diệu hay những nét đặc trưng của trời mây trong thơ Nguyễn Khuyến;…ít nhiều mang tính ước lệ, đặc trưng. Thì hương ổi trong thơ Hữu Thỉnh là một sự khám phá mới mẻ. Đó là hương thơm quen thuộc, đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ mỗi dịp thu về. Hương vị ấy “phả” vào trong “gió se” – thứ gió heo may, lạnh và khô chỉ xuất hiện vào độ giao mùa ở miền Bắc. Dùng từ”phả” tác giả gợi hương thơm như lắng đọng, như sánh lại. Nó sánh bởi mùa hạ đã lặn vào quả ngọt, đã dâng hiến hết mình để bây giờ gió heo may đầu mùa đem hương thơm ngan ngát của ổi chín lan toả vào không gian, thấm vào tâm tưởng đánh thức những kỉ niệm tuổi thơ. Có thể nói, trước Hữu Thỉnh có rất nhiều nhà thơ viết về mùa thu nhưng đây là một phát hiện tinh tế của hồn thơ xứ sở.
+ Tiếp theo là hình ảnh màn “sương” giăng trước “ngõ”.Vào mỗi buổi sớm thu , sương trắng như tấm voan mỏng, chùm lên vạn vật. Và mùa thu không chỉ được cảm nhận qua khứu giác, cảm giác mà còn được nhận ra qua thị giác với hình ảnh “sương chùng chình qua ngõ”. Từ láy gợi hình của nghệ thuật nhân hoá, người đọc hình dung cảnh độ chớm thu thật mờ ảo khói sương. Sương như ngưng lại, kết thành hình khối trong con ngõ nhỏ ở làng quê. Nó như đang chờ đợi ai hay đang lưu luyến nửa ở nửa đi khi qua con ngõ nhỏ nhà ai.Câu thơ lắng đọng tạo cảm giác mơ hồ đan xan nhiều cảm xúc. Đã cảm nhận được thu sang qua “hương ổi”, “gió se”, “sương chùng chình”, mà thi nhân vẫn cảm thấy ngỡ ngàng, bâng khuâng:
“Hình như thu đã về”.
Cả đoạn thơ không chỉ đặc sắc ở tả cảnh mà còn là sự rung rinh cảm nhận trước một cái gì đó mơ hồ,như có, như không. Phải chăng, đó là những phút đầu tiên của mùa thu chợt tới trong cảm xúc xao xuyến của lòng người?
- Sau cái bỡ ngỡ ban đầu trước không gian làng quê sang thu là cảm nhận rõ nét về những chuyển biến của thiên nhiên:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã,
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”.
+ Bức tranh mùa thu được cảm nhận bởi sự thay đổi của đất trời theo tốc độ di chuyển từ hạ sang thu, nhẹ nhàng mà rõ rệt. Thiên nhiên sanh thu đã được cụ thể bằng những hình ảnh: “sông dềnh dàng”, “chim vội vã”, “đám mây vắt nửa mình”. Như thế, thiên nhiên đã được quan sát ở một không gian rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn. Và bức tranh sang thu từ những gì vô hình như “hương ổi” ,”gió se”, từ nhỏ hẹp như con ngõ chuyển sang những nét hữu hình, cụ thể với một không gian vừa dài rộng, vừa xa vời. Tác giả cảm nhận thu sang bằng cả tâm hồn. Dòng sông đã qua mùa lũ, giờ đây trôi nhẹ nhàng, êm ả đầy tâm trạng như chậm lại, như trễ nải, như ngẫm ngợi nghĩ suy về những trải nghiệm trong cuộc đời. Đối lập là hình ảnh những cánh chim trời vội vã bay về phương Nam tránh rét. Hai tốc độ trái ngược nhau, giữa chậm và nhanh là quy luật của muôn loài, muôn vật ở vào thời điểm giao thoa giữa hai mùa hạ - thu.
+ Thu sang có hương ổi nồng nàn, có gió thu se lạnh, có dòng sông dềnh dàng, có cánh chim trời vội vã và ở đó:
“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”.
Bằng sự liên tưởng của một hồn thơ độc đáo, người đọc cảm nhận: hình như trong đám mây kia còn vương vấn những tia nắng gay gắt của mùa hè và cả những tiềm ẩn cơn mưa nên mới chỉ “vắt nửa mình sang thu”. Ngôn ngữ giàu chất tạo hình. Dường như, thu và hạ là đầu của cầu thời gian, còn đám mây là nhịp nối giữa hai đầu cầu ấy. Trong khoảnh khắc giao mùa, đám mây như mềm hơn, duyên dáng như một dải lụa vắt lên cái ranh giới lỏng lẻo giữa hai mùa hạ thu để rồi một thoáng qua đi nhường chỗ cho “ trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”. Có thể nói, sắc mùa và những chuyển động của mùa thu qua cảm nhận của nhà thơ Hữu Thỉnh thật quyến rũ, thật xốn xang lòng người!
3.Cảm nhận về hồn người:
- Nếu ở hai khổ thơ đầu của bài thơ, dấu hiệu mùa thu đã khá rõ ràng trong không gian và thời gian, sang khổ cuối vẫn theo dòng cảm xúc ấy, tác giả bộc lộ suy ngẫm của mình về con người, về cuộc đời:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”.
+ Vẫn là nắng mưa, sấm chớp, bão giông như mùa hạ nhưng mức độ đã giảm dần, đã đi vào chừng mực, vào thế ổn định. Ánh nắng nhạt dần không còn chói chang, mưa cũng đã ít dần và sấm không còn làm cho hàng cây đứng tuổi bất ngờ. Phép tiểu đối “nắng” và “mưa”, “vẫn còn” và “đã vơi” thể hiện sự phân hoá mong manh giữa hai mùa. Bởi vì làm sao có thể đong đếm đầy vơi những dấu hiệu của thiên nhiên lúc giao mùa. Và cái đứng tuổi của hàng cây là một cái chốt cửa để mở sang một thế giới khác: thế giới sang thu của hồn người. Hai hình ảnh “sấm” và “hàng cây đứng tuổi” người đọc cảm nhận bằng hai tầng ý nghĩa. Tầng nghĩa thứ nhất tả thực hiện tượng sấm chớp và hình ảnh hàng cây trong mưa cuối hạ. Tầng nghĩa thứ hai là nghĩa hầm ngôn thông qua hình ảnh có tính chất ẩn dụ nghệ thuật. “Sấm” là những vang động, những sóng gió bất thường của cuộc đời. “Hàng cây đứng tuổi” chỉ những con người từng trải thương điềm tĩnh hơn trước những tác động bất thường của ngoại cảnh. Từ những thay đổi của mùa thu thiên nhiên, liên tưởng đến những đổi thay của mùa thu đời người, để rồi ta thấu hiểu ra rằng: “Hãy biết chấp nhận, bình tĩnh sống với niềm tin. Hãy mở rộng lòng mình để yêu thiên nhiên, đất nước, con người.”
4.Đánh giá:
Với giọng thơ êm ái, chậm rãi và nhẹ nhàng, bài thơ đã đưa người đọc vào thế giới tâm hồn nhạy cảm của thi sĩ. Đắm mình trong âm điệu, trong từng chữ, từng câu lắng lại với các hình ảnh thân thuộc, người đọc nhận ra những rung cảm tinh tế của nhà thơ về sự biến đổi nhẹ nhàng mà rõ rệt của đất trời, của tuổi đời những con người từng trải. Đó là biểu hiện của một tâm hồn yêu sống, một tâm hồn không già theo năm tháng, một niềm tin vào cuộc đời, một hồn thơ, một nguồn thi cảm không bao giờ vơi cạn trước thiên nhiên.
III. Kết bài:
Nhẹ nhàng, êm ả, ngọt lành, sự tinh tế của tâm hồn biết nhìn, biết lắng nghe gợi lên trong lòng người đọc những rung cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, của đất trời. Đó là tất cả những gì mà nhà thơ đem đến cho độc giả qua bài thơ “Sang thu”. Với “Sang thu”, Hữu Thỉnh đã để lại một dấu ấn khó phai tròng lòng người yêu thơ ca.
Bài tập 6:
I. Mở bài:
Mùa thu bước vào thơ ca thật tự nhiên, gần gũi – trở thành một thi đề quen thuộc. Các bài thơ viết về đề tài này đều để lại trong lòng người đọc những ấn tượng khó phai. Nói đến mùa thu, ta không thể không nhắc tới chùm thơ ba bài “Thu điếu”, “Thu vịnh”,”Thu ẩm” của cụ Tam Nguyên Yên Đổ - Nguyễn Khuyến; không thể không xao xuyến với “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư, “Đây mùa xuân tới” của Xuân Diệu,… Là nhà thơ viết hay, viết nhiều về mùa thu với những cảm xúc bâng khuâng, vương vấn trước đất trời trong trẻo đang chuyển biến nhẹ nhàng, Hữu Thỉnh cũng góp vào thơ thu đất nước một “Sang thu” tinh tế mà sâu sắc. Để lại nhiều ấn tượng nhất trong lòng người đọc về bài thơ là bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp rất thực, rất riêng được vẽ bằng tâm hồn nhạy cảm một tình yêu thiên, yêu cuộc sống:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Gió chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
II.Thân bài:
1.Khái quát (Dẫn dắt vào bài):
- Nằm trong mạch cảm xúc của toàn bài, với ngôn ngữ giản dị, giàu hình ảnh, đoạn thơ đã gợi trước mắt chúng ta bức tranh thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu mơ màng, huyền ảo. Bức tranh đẹp, dung dị, mà duyên dáng. Và cũng hiểu thêm một hồn thơ, một tầm hồn chứa chan niềm tin yêu cuộc sống.
2.Phân tích, cảm nhận:
Luận điểm 1: Cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước những hình ảnh, hiện tượng thể hiện sự biến đổi của đất trời lúc sang thu:
- Cảm nhận về hương ổi
- Cảm nhận về làn sương chùng chình
- Những tín hiệu của mùa thu chưa rõ nét nhưng cũng đủ khiến nhà thơ ngỡ ngàng, bâng khuâng: “bỗng”,”hình như”.
Luận điểm 2: Cảm nhận của nhà thơ về những biến chuyển trong không gian lúc sang thu.
- Cảnh rộng dần và rõ nét.
- Dòng sông “được lúc dềnh dàng”, êm ả sau mùa bão lũ. Đối lập là hình ảnh “chim bắt đầu vội vã”. Bức tranh không gian cao rộng, trong sáng.
- Hình ảnh đám mây: được gọi “mây mùa hạ” chuyển động mềm mại, lưu luyến “vắt nửa mình sang thu”. Hình ảnh mang nét đặc trưng lúc giao mùa, hạ chưa qua hết mà thu cũng chưa đến hẳn.
3.Ý kiến đánh giá, bình luận: về nội dung và nghệ thuật.
III.Kết bài: Kết thúc vấn đề.
Do mk ms chỉ hc lớp 6 lên lớp 7 thôi, nên ko bk cái này nên đã nhờ mạng, bn thông cảm
Đáp án B
Lá vàng rơi