Nêu khái quát cảm nghĩ về cuộc sống sinh hoạt cảu quan phụ mẫu trong Vb " Sống chết mặc bay "
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Em tham khảo nhé !
Sống chết mặc bay là một truyện ngắn hiện đại đầu đầu mang những giá trị hiện thực sâu sắc, tố cáo, lên án chế độ phong kiến lạc hậu, cũ nát, cùng lũ quan trên độc ác, tàn nhẫn, giẫm đạp lên cái khốn cùng của nhân dân để ăn chơi xa xỉ, vui hưởng lạc thú. Đồng thời tác phẩm còn là tiếng lòng thương cảm, xót xa cho số phận người nông dân thấp cổ bé họng dưới chế độ cũ, cuộc sống khổ cực lầm than, thiên tai lũ lụt ập đến liên miên, kêu trời trời không thấu, kêu đất đất cũng chịu làm thinh, đắng cay muôn vàn không kể hết.
Sống chết mặc bay là tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà văn Phạm Duy Tốn, mở đầu cho lối văn học hiện thực hơi hướng phương Tây của Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ 20. Tác phẩm được in trên báo Nam Phong vào tháng 12 năm 1918, điển cho một lối văn mới, gây ấn tượng sâu sắc cho độc giả lúc bấy giờ bởi những chi tiết đắt giá và hình thức thể hiện mới mẻ, cách xây dựng nhân vật đặc sắc, phản ánh rõ nét nỗi khốn khổ, tuyệt vọng của người nông dân khi đối mặt với thiên tai, nêu bật được sự vô nhân đạo, tàn ác, lòng lang dạ thú của những tên quan phụ mẫu trong cảnh an nhàn, vui hưởng lạc thú. Trong đó Phạm Duy Tốn đã cất công gây dựng được hình tượng một tên quan phụ mẫu với những chi tiết đáng giá, vừa thể hiện thái độ căm tức, tố cáo, lại cũng là trào phúng, châm biếm một cách mạnh mẽ những kẻ ngồi trên ăn trước này.
Sống chết mặc bay có cách mở đầu hoàn toàn khác biệt với các tác phẩm văn học truyền thống, khởi đầu Phạm Duy Tốn đã lập tức tái hiện lại cảnh hộ đê khốn khổ của người dân làng X, phủ X trên khúc đê bao quanh sông Nhị Hà, nay gọi là sông Hồng. Khung cảnh được tái diễn một cách sinh động, không khí vô cùng khẩn trương gấp gáp với những câu vào thẳng bối cảnh truyện "Gần một giờ đêm, trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng... thuộc phủ..., xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất....". Từ đó mở khung cảnh thiên tai bão lũ đầy nguy cấp, còn dân làng thì đang khốn khổ dùng hết mọi sức lực để mong cứu cho được khúc đê sắp vỡ, mà trên lưng họ lúc bấy giờ là gánh nặng sinh mạng của hàng trăm, hàng ngàn con người. Tình thế ấy quả thực là ngàn cân treo sợi tóc, khiến lòng người hoang mang, sợ hãi và tuyệt vọng vô cùng với thế nước ngày một dâng cao chỉ trực sẽ nuốt trôi cả ngôi làng trước mắt. Những lời bình ngắn, những câu cảm thán đầy xót xa, ngao ngán của tác giả "Tình cảnh trông thật thảm hại" ; "Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê nay hỏng mất", lại càng làm nổi bật cái tình cảnh khốn khổ, bất lực, mỏi mệt và tuyệt vọng của dân làng, trước thiên tai dữ dội.
Việc vừa vào truyện đã nêu nổi bật lên cảnh hộ đê đầy thảm hại của người nông dân của Nguyễn Duy Tốn không chỉ có giá trị phản ánh sự dữ dội của thiên tai và nỗi vất vả, bất lực của người nông dân trước cảnh ngàn cân treo sợi tóc, mà nó còn đóng vai trò là bước bẹm là cái nền tương phản làm nổi bật lên sự tàn ác, vô nhân đạo, sự khốn nạn của tên quan phụ mẫu. Mang tiếng là quan phụ mẫu đến để trông nom, đốc thúc nhân dân bảo vệ đê điều, chăm lo cho cuộc sống của nhân dân sao cho xứng với hai chữ "phụ mẫu", thế nhưng thực tế rằng lại tận hưởng cuộc sống thư thái trên chính nỗi đau của nhân dân, "hộ đê" bằng cách đánh bài tổ tôm. Hình tượng nhân vật quan phụ mẫu đã được Phạm Duy Tốn khắc họa một cách rõ nét thông qua việc miêu tả cuộc sống phong phú, giàu sang khác hẳn với sự vật vã, tuyệt vọng và khốn khổ của dân làng X. Trong khi toàn thể dân làng "hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức giữ gìn, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy ướt như chuột lột", thì trái lại tên quan phụ mẫu cho chúng ta hình ảnh, hắn đang ở trong một ngôi đình to lớn, ấm áp, mưa không tới mặt nắng không tới đầu, cách chỗ đê sắp vỡ chừng bốn năm trăm thước để đánh bài tổ tôm. Tư thế vô cùng nhàn hạ, thoải mái dường như trận mưa lớn, cùng những tiếng hò dô, bảo hộ đê của muôn nghìn người dân chẳng lọt vào tai hắn một đến một tiếng "tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên hầu quỳ dưới mà gãi", lại có cả tên lính lệ đứng bên liên tục phe phẩy quạt, tên trực điếu đóm cho, trông chẳng khác nào một tên vương giả đang nghỉ mát. Thêm nữa trong khi hàng trăm con người ướt như chuột lột lo đắp đê, chống lũ trong khốn khổ, có lẽ chẳng có thời gian mà cơm nước, nghỉ ngơi thì quan phụ mẫu lại sung sướng lắm nào cháo yến hấp đường phèn, rồi trầu vàng, cau đậu, rễ tía, ống thuốc bạc, đồng hồ vàng, dao chuôi ngà, ống vôi chạm, ngoáy tai,... ôi chao cuộc sống làm gì có thể đủ đầy và vương giả hơn thế nữa. Thú thực được như thế, thì bao nhiêu mưa gió ngoài kia lại chỉ càng làm cho cái thú thưởng thức nó thêm phần tuyệt hảo, đúng với phong thái "hộ đê" của riêng quan phụ mẫu. Rồi cái cảnh lính lệ, người ở, các thầy đề, thầy thông nhì, thầy đội nhất, thầy chánh tổng sở tại,... người đi lại nhịp nhàng, cẩn thận, kẻ ngồi xếp bằng trật tự, ung dung, dáng vẻ tôn hiển, nghiêm túc cùng với quan phụ mẫu bệ vệ ngồi trên, thiết nghĩ ồ có lẽ các quan đang suy xét nghĩ kế hộ đê. Ôi, thế nhưng trò đời với cái thói ngược ngạo, đâu có cho ta được viễn cảnh thuận tình ấy, hóa ra các ngài cũng đang "hộ đê" đấy nhưng là hộ đê bằng những con bài tổ tôm, được nâng lên hạ xuống một cách thích chí, say mê, chứ các quan nào có biết gì đến nỗi khổ tâm của con dân ngoài kia đâu.
Sự nhẫn tâm, khốn nạn của tên quan phụ mẫu này nếu chỉ dựa vào cái cảnh hắn sống sung sướng thì có lẽ vẫn chưa đủ, mà thêm vào đó tác giả còn cho nhân vật này những lời thoại rất đắt bộc lộ một cách rõ nét bản chất lòng lang dạ sói của hắn. Khi có tên hầu vào báo "Bẩm dễ có khi đê vỡ", những tưởng quan sẽ giật mình sốt sắng, bỏ vội chiếu bài dở để đi hộ đê cho kịp, nhưng không, quan phụ mẫu ở đây không làm như vậy, ngài gắt "Mặc kệ". Than ôi, thật đúng cho cái tiêu đề sống chết mặc bay thật, những mưa to gió lớn, những tiếng khóc, tiếng kêu, người cuốc đất, người khiêng đá đắp đê, đấu lại nước lũ đang chực chờ nuốt chửng cả ngôi làng bé nhỏ cũng chẳng thể hồi hộp, gay cấn bằng những con bài đen, bài đỏ, những nước bài cao thấp phân tranh trên chiếu bạc của quan phụ mẫu. Ngài bận nghĩ cho ra một nước bài cao, đánh cho ra trận thông ù, để nhận muôn lời nịnh hót của chúng quan phía dưới, chứ can gì nỗi sống chết của nhân dân, can gì cảnh ruộng đồng, ngập lụt, trâu bò trôi sông đâu. Trong khi mọi người run sợ vì những tiếng kêu gào thảm thiết của người, chó, gà, lợn, trâu, bò ầm ĩ thì riêng quan vẫn cứ điềm nhiên một nỗi như không, đúng là phong thái của một vị quan phụ mẫu, giá như cái phong thái ấy nó phát huy trong lúc ngài chỉ huy nhân dân rào đắp con đê sắp vỡ thì nó lại phước phần quá.
Nếu như lúc đê sắp vỡ quan chỉ gắt mặc kệ, vì nghĩ còn lâu đê mới vỡ thì đến khi đê vỡ thật, thái độ của quan mới lại khiến người ta không khỏi căm tức "Đê vỡ rồi!... Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy". Quan có giận vì lo sợ đê vỡ hay hoảng hồn vì tình thế nguy cấp, vì tính mạng của nhân dân đâu, quan tức, quan gắt chỉ bởi cái tên nhà quê nhếch nhác chết tiệt kia dám vô phép vô tắc chạy xồng xộc vào nơi uy nghiêm, bề thế nơi mà quan đang bận đánh bài tổ tôm sung sướng mà thôi. Rồi thì bây giờ, đê vỡ hay không vỡ vốn dĩ quan chẳng thèm quan tâm, quan sướng phần quan, còn dân bay chết trôi, chết nổi, tan đàn xẻ nghé dường như chẳng liên quan gì đến việc quan vừa ù xong ván bài nữa. Đắc ý lắm, mà cũng độc ác, nhẫn tâm lắm!
Sống chết mặc bay là một truyện ngắn hiện đại đầu đầu mang những giá trị hiện thực sâu sắc, tố cáo, lên án chế độ phong kiến lạc hậu, cũ nát, cùng lũ quan trên độc ác, tàn nhẫn, giẫm đạp lên cái khốn cùng của nhân dân để ăn chơi xa xỉ, vui hưởng lạc thú. Đồng thời tác phẩm còn là tiếng lòng thương cảm, xót xa cho số phận người nông dân thấp cổ bé họng dưới chế độ cũ, cuộc sống khổ cực lầm than, thiên tai lũ lụt ập đến liên miên, kêu trời trời không thấu, kêu đất đất cũng chịu làm thinh, đắng cay muôn vàn không kể hết.
Sống chết mặc bay là một truyện ngắn hiện đại đầu đầu mang những giá trị hiện thực sâu sắc, tố cáo, lên án chế độ phong kiến lạc hậu, cũ nát, cùng lũ quan trên độc ác, tàn nhẫn, giẫm đạp lên cái khốn cùng của nhân dân để ăn chơi xa xỉ, vui hưởng lạc thú. Đồng thời tác phẩm còn là tiếng lòng thương cảm, xót xa cho số phận người nông dân thấp cổ bé họng dưới chế độ cũ, cuộc sống khổ cực lầm than, thiên tai lũ lụt ập đến liên miên, kêu trời trời không thấu, kêu đất đất cũng chịu làm thinh, đắng cay muôn vàn không kể hết.
Sống chết mặc bay là tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà văn Phạm Duy Tốn, mở đầu cho lối văn học hiện thực hơi hướng phương Tây của Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ 20. Tác phẩm được in trên báo Nam Phong vào tháng 12 năm 1918, điển cho một lối văn mới, gây ấn tượng sâu sắc cho độc giả lúc bấy giờ bởi những chi tiết đắt giá và hình thức thể hiện mới mẻ, cách xây dựng nhân vật đặc sắc, phản ánh rõ nét nỗi khốn khổ, tuyệt vọng của người nông dân khi đối mặt với thiên tai, nêu bật được sự vô nhân đạo, tàn ác, lòng lang dạ thú của những tên quan phụ mẫu trong cảnh an nhàn, vui hưởng lạc thú. Trong đó Phạm Duy Tốn đã cất công gây dựng được hình tượng một tên quan phụ mẫu với những chi tiết đáng giá, vừa thể hiện thái độ căm tức, tố cáo, lại cũng là trào phúng, châm biếm một cách mạnh mẽ những kẻ ngồi trên ăn trước này.
Sống chết mặc bay có cách mở đầu hoàn toàn khác biệt với các tác phẩm văn học truyền thống, khởi đầu Phạm Duy Tốn đã lập tức tái hiện lại cảnh hộ đê khốn khổ của người dân làng X, phủ X trên khúc đê bao quanh sông Nhị Hà, nay gọi là sông Hồng. Khung cảnh được tái diễn một cách sinh động, không khí vô cùng khẩn trương gấp gáp với những câu vào thẳng bối cảnh truyện "Gần một giờ đêm, trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng... thuộc phủ..., xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất....". Từ đó mở khung cảnh thiên tai bão lũ đầy nguy cấp, còn dân làng thì đang khốn khổ dùng hết mọi sức lực để mong cứu cho được khúc đê sắp vỡ, mà trên lưng họ lúc bấy giờ là gánh nặng sinh mạng của hàng trăm, hàng ngàn con người. Tình thế ấy quả thực là ngàn cân treo sợi tóc, khiến lòng người hoang mang, sợ hãi và tuyệt vọng vô cùng với thế nước ngày một dâng cao chỉ trực sẽ nuốt trôi cả ngôi làng trước mắt. Những lời bình ngắn, những câu cảm thán đầy xót xa, ngao ngán của tác giả "Tình cảnh trông thật thảm hại" ; "Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê nay hỏng mất", lại càng làm nổi bật cái tình cảnh khốn khổ, bất lực, mỏi mệt và tuyệt vọng của dân làng, trước thiên tai dữ dội.
Việc vừa vào truyện đã nêu nổi bật lên cảnh hộ đê đầy thảm hại của người nông dân của Nguyễn Duy Tốn không chỉ có giá trị phản ánh sự dữ dội của thiên tai và nỗi vất vả, bất lực của người nông dân trước cảnh ngàn cân treo sợi tóc, mà nó còn đóng vai trò là bước bẹm là cái nền tương phản làm nổi bật lên sự tàn ác, vô nhân đạo, sự khốn nạn của tên quan phụ mẫu. Mang tiếng là quan phụ mẫu đến để trông nom, đốc thúc nhân dân bảo vệ đê điều, chăm lo cho cuộc sống của nhân dân sao cho xứng với hai chữ "phụ mẫu", thế nhưng thực tế rằng lại tận hưởng cuộc sống thư thái trên chính nỗi đau của nhân dân, "hộ đê" bằng cách đánh bài tổ tôm. Hình tượng nhân vật quan phụ mẫu đã được Phạm Duy Tốn khắc họa một cách rõ nét thông qua việc miêu tả cuộc sống phong phú, giàu sang khác hẳn với sự vật vã, tuyệt vọng và khốn khổ của dân làng X. Trong khi toàn thể dân làng "hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức giữ gìn, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy ướt như chuột lột", thì trái lại tên quan phụ mẫu cho chúng ta hình ảnh, hắn đang ở trong một ngôi đình to lớn, ấm áp, mưa không tới mặt nắng không tới đầu, cách chỗ đê sắp vỡ chừng bốn năm trăm thước để đánh bài tổ tôm. Tư thế vô cùng nhàn hạ, thoải mái dường như trận mưa lớn, cùng những tiếng hò dô, bảo hộ đê của muôn nghìn người dân chẳng lọt vào tai hắn một đến một tiếng "tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên hầu quỳ dưới mà gãi", lại có cả tên lính lệ đứng bên liên tục phe phẩy quạt, tên trực điếu đóm cho, trông chẳng khác nào một tên vương giả đang nghỉ mát. Thêm nữa trong khi hàng trăm con người ướt như chuột lột lo đắp đê, chống lũ trong khốn khổ, có lẽ chẳng có thời gian mà cơm nước, nghỉ ngơi thì quan phụ mẫu lại sung sướng lắm nào cháo yến hấp đường phèn, rồi trầu vàng, cau đậu, rễ tía, ống thuốc bạc, đồng hồ vàng, dao chuôi ngà, ống vôi chạm, ngoáy tai,... ôi chao cuộc sống làm gì có thể đủ đầy và vương giả hơn thế nữa. Thú thực được như thế, thì bao nhiêu mưa gió ngoài kia lại chỉ càng làm cho cái thú thưởng thức nó thêm phần tuyệt hảo, đúng với phong thái "hộ đê" của riêng quan phụ mẫu. Rồi cái cảnh lính lệ, người ở, các thầy đề, thầy thông nhì, thầy đội nhất, thầy chánh tổng sở tại,... người đi lại nhịp nhàng, cẩn thận, kẻ ngồi xếp bằng trật tự, ung dung, dáng vẻ tôn hiển, nghiêm túc cùng với quan phụ mẫu bệ vệ ngồi trên, thiết nghĩ ồ có lẽ các quan đang suy xét nghĩ kế hộ đê. Ôi, thế nhưng trò đời với cái thói ngược ngạo, đâu có cho ta được viễn cảnh thuận tình ấy, hóa ra các ngài cũng đang "hộ đê" đấy nhưng là hộ đê bằng những con bài tổ tôm, được nâng lên hạ xuống một cách thích chí, say mê, chứ các quan nào có biết gì đến nỗi khổ tâm của con dân ngoài kia đâu.
Sự nhẫn tâm, khốn nạn của tên quan phụ mẫu này nếu chỉ dựa vào cái cảnh hắn sống sung sướng thì có lẽ vẫn chưa đủ, mà thêm vào đó tác giả còn cho nhân vật này những lời thoại rất đắt bộc lộ một cách rõ nét bản chất lòng lang dạ sói của hắn. Khi có tên hầu vào báo "Bẩm dễ có khi đê vỡ", những tưởng quan sẽ giật mình sốt sắng, bỏ vội chiếu bài dở để đi hộ đê cho kịp, nhưng không, quan phụ mẫu ở đây không làm như vậy, ngài gắt "Mặc kệ". Than ôi, thật đúng cho cái tiêu đề sống chết mặc bay thật, những mưa to gió lớn, những tiếng khóc, tiếng kêu, người cuốc đất, người khiêng đá đắp đê, đấu lại nước lũ đang chực chờ nuốt chửng cả ngôi làng bé nhỏ cũng chẳng thể hồi hộp, gay cấn bằng những con bài đen, bài đỏ, những nước bài cao thấp phân tranh trên chiếu bạc của quan phụ mẫu. Ngài bận nghĩ cho ra một nước bài cao, đánh cho ra trận thông ù, để nhận muôn lời nịnh hót của chúng quan phía dưới, chứ can gì nỗi sống chết của nhân dân, can gì cảnh ruộng đồng, ngập lụt, trâu bò trôi sông đâu. Trong khi mọi người run sợ vì những tiếng kêu gào thảm thiết của người, chó, gà, lợn, trâu, bò ầm ĩ thì riêng quan vẫn cứ điềm nhiên một nỗi như không, đúng là phong thái của một vị quan phụ mẫu, giá như cái phong thái ấy nó phát huy trong lúc ngài chỉ huy nhân dân rào đắp con đê sắp vỡ thì nó lại phước phần quá.
Nếu như lúc đê sắp vỡ quan chỉ gắt mặc kệ, vì nghĩ còn lâu đê mới vỡ thì đến khi đê vỡ thật, thái độ của quan mới lại khiến người ta không khỏi căm tức "Đê vỡ rồi!... Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy". Quan có giận vì lo sợ đê vỡ hay hoảng hồn vì tình thế nguy cấp, vì tính mạng của nhân dân đâu, quan tức, quan gắt chỉ bởi cái tên nhà quê nhếch nhác chết tiệt kia dám vô phép vô tắc chạy xồng xộc vào nơi uy nghiêm, bề thế nơi mà quan đang bận đánh bài tổ tôm sung sướng mà thôi. Rồi thì bây giờ, đê vỡ hay không vỡ vốn dĩ quan chẳng thèm quan tâm, quan sướng phần quan, còn dân bay chết trôi, chết nổi, tan đàn xẻ nghé dường như chẳng liên quan gì đến việc quan vừa ù xong ván bài nữa. Đắc ý lắm, mà cũng độc ác, nhẫn tâm lắm!
Sống chết mặc bay là một truyện ngắn hiện đại đầu đầu mang những giá trị hiện thực sâu sắc, tố cáo, lên án chế độ phong kiến lạc hậu, cũ nát, cùng lũ quan trên độc ác, tàn nhẫn, giẫm đạp lên cái khốn cùng của nhân dân để ăn chơi xa xỉ, vui hưởng lạc thú. Đồng thời tác phẩm còn là tiếng lòng thương cảm, xót xa cho số phận người nông dân thấp cổ bé họng dưới chế độ cũ, cuộc sống khổ cực lầm than, thiên tai lũ lụt ập đến liên miên, kêu trời trời không thấu, kêu đất đất cũng chịu làm thinh, đắng cay muôn vàn không kể hết.
Qua truyện "Sống chết mặc bay", Phạm Duy Tốn đã khắc họa chân dung về tên quan phụ mẫu thờ ơ, vô trách nhiệm trước tình cảnh thống khổ của nhân dân.mặc cho nhân dân phải lam lũ chống chọi với thiên tai. Khinh bỉ thay, phẫn nộ thay cho tên vô nhân đạo, lòng lang dạ sói đến thế, hắn nào có đi hộ đê mà đem theo bao nhiêu thứ: nào yến hấp đường phèn, nào ống thuốc bạc, nào dao chuôi ngà, nào tăm bông…Trong lúc lũ con dân của hắn đang tầm tả ngoài kia mà hắn có thể ăn chơi phè phỡn trên nỗi khổ của họ. Nhưng đỉnh điểm khi được thông báo rằng đê đã vỡ, nhưng tên quan vô lương tâm ấy không những không nghĩ cách cứu đê mà còn quát mắng, đem tội lỗi đổ đầu lên con dân. Khi đê vỡ cũng là lúc quan ù ván bài to nhất, tình cảnh bên ngoài rơi vào cảnh nghìn sầu muôn thảm - người sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn.Sự vô trách nhiện của tên lòng lang dạ thú đã dẫn đến hậu quả cho nhân dânSống chết mặc bay chính là một tác phẩm lên án cái xã hội phong kiến thối nát một cách triệt để nhất.
Trong truyện ngắn " Sống chết mặc bay:, tác giae Phạm Duy Tốn đã khắc họa nhân vật quan phụ mẫu-một tên quan vô trách nhiệm, lòng lang dạ thú. Với vai trò là cha là mẹ của dân, đáng lẽ là khi dân chúng trong cảnh hộ đê lấm láp, vất vả thì quan phụ mẫu phải ra chỗ con đê xung yếu để cùng dân hộ đe. Mà đằng này quan lại ở trong đình cao, vững chaĩ, đi hộ đê nhưng lại mang các đồ dùng sinh hoạt sang trọng , đắt tiền như: ống thuốc bạc, đồng hồ vàng, cau đậu, rễ tía... Kẻ hầu người hạ đi lại rộn ràng như ngày hội. Đối lập với cảng dân đang hộ đê là cảnh quan ung dung chơi tổ tôm, ham mê với nước cờ đen đỏ, chỉ lăm le người khác bốc trúng quân mình rồi hạ. Khi có người chạy vào báo đê vỡ,quan lại lớn tiếng quát, đe dọa cách cổ, bỏ tù, và đuổi họ ra ngoài xong lại tiếp tục ván bài đang dang dở của mình. Chính những chi tiết ấy đã khắc họa một tên quan phụ mẫu kaf kẻ vô nhân tính, táng tận lương tâm. Chính sự thói thờ ơ, vô trách nhiệm, bỏ mặc dân chúng trong cảnh nghìn sầu muôn thảm, tác giả đã bày tỏ niềm thương xót trước người dân và lên án phê phán tên quan phụ mẫu lòng lang dạ thú.
Phép liệt kê: ống thuốc bạc, đồng hồ vàng, cau đậu, rễ tía.... đây là phép liệt kê không tăng tiến.
Học tốt :D
Bài "Sống chết mặc bay" đã lên án gay gắt ten quan phủ lòng lang dạ thú, Ở đây là tên quan phụ mẫu, được cử đến hộ đê nhưng hắn lại không hề ra chỉ đạo giúp dân mà hắn lại chỉ ngồi trong đình, chỗ vúng trĩa, cao ráo nhất để hưởng thụ. Quang cảnh tĩnh mịch, đèn tháp sáng trưng, kẻ hầu người hạ đi lại tấp nập. quan phủ uy nghi chễm chệ ngồi, có người quạt, người gãi chân, người hầu điếu đóm. Về khoản ăn uống thì ngài xơi bát yến hấp đường phèn, trầu vàng, câu đậu, rễ tía,...lại thêm cả đồng hồ vàng, ống vôi bạc, ví thuốc, tăm bông,...đúng là một kẻ giàu sang lấy danh nghĩa đi hộ để để khoe khoang của cải
Bài này của mk là của cô mk cho viết nha, ko chép mạng đâu
Bn tham khảo bài làm tại link này nè :
https://vndoc.com/viet-doan-van-khoang-8-cau-neu-suy-nghi-cua-em-ve-quan-phu-mau-trong-van-ban-song-chet-mac-bay/download
~ Hok tốt ~
Phạm Duy Tốn là cây bút viết truyện ngắn xuất sắc nhất của những năm đầu thế kỷ XX. Trong số những tác phẩm ông để lại, Sống chết mặc bay là truyện ngắn tiêu biểu hơn cả, tác phẩm thể hiện rõ tinh thần nhân đạo thông qua việc lên án thái độ vô trách nhiệm, vô nhân tính không màng đến sự sống chết đối với người nông của giai cấp quan lại trong xã hội cũ. Đọc tác phẩm, người đọc thấy bất bình và căm ghét vô cùng nhân vật tên quan phủ – bậc quan “phụ mẫu” của dân.
Tác phẩm lấy bối cảnh là mùa lũ về trên làng X. giữa đêm đen nông dân cực nhọc chống chọi với mưa lũ để cứu đê: “Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng X thuộc phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đê thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất”. Tính mạng “con dân” cả vùng đang bị đe dọa nghiêm trọng. “Kẻ thì thuổng, người thì cuốc, người đội đất, kẻ vác tre” “người nào người nấy lướt thướt như chuột lột”. Là quan huyện của dân, đáng ra, quan phải sát cánh bên dân cùng dân chống đỡ. Hay chí ít ra là phải họp bàn với các chức sắc để bàn cách đối phó. Nhưng không, khi tất cả dân đen đang hối hả lo cho khúc đê thì quan đang chễm chệ trong đình. “Cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trong mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng chẳng việc gì”, trong đình “đèn thắp sáng trưng”, “nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại rộn rịp”. Giữa cảnh vui vẻ, hoan lạc ấy, quan huyện trở thành trung tâm với phong thái đường bệ, kẻ cả: quan phụ mẫu “uy nghi chễm chệ ngồi” “Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên cầm quạt lông chốc chốc sẽ phẩy. Tên đứng khoanh tay trực hầu điếu đóm. Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, tráp đồi mồi, hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng và cơ man những vật dụng quý phái sang trọng khác”. Quan như không hề hay biết đến tình trạng thảm thương của dân chúng. Sự vô trách nhiệm ấy khiến ngườỉ đọc bất bình và không hiểu tại sao lại có kệ vô tình đến vậy. Là một người thường vô tâm với cảnh hgộ bi đát của dân chúng đã không đành, huống chi, đây lại là bậc quan dân!
Bản chất vô nhân đạo, lối sống “sống chết mặc bay” của tên quan huyện đã dần lộ rõ. Mưa gió và sinh mạng hàng ngàn con người không được quan chú ý bằng một trăm hai mươi lá bài đen đỏ. Không khí trong đình vẫn tĩnh mịch y trang, chỉ đôi khi nghe tiếng quan gọi “điếu mày”, tiếng “dạ”, tiếng “bốc”, “Bát sách! Ăn”, “Thất văn,., phỗng”… Thú vui bài bạc, ma lực đỏ đen đã làm bọn quan lại đánh mất lương tri, nhân tính. “Nước sông dầu nguy không bằng nước bài cao thấp”, hình ảnh so sánh thể hiện sự táng tận lương tâm của lũ vô lại. Cuối cùng, đê vỡ. Quan đỏ mặt tía tai “đê vỡ rồi thời ông cách cổ chúng mày”. Đoạn, lại bình thản quay mặt hỏi thầy đề: “Thầy bốc quân gì thế?”. Ván bài “ù to”. Quan sung sướng, cười hả hê, đắc chí và cũng chính lúc ấy “nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết”…
Đến đây, không còn là sự bất bình mà là nỗi căm ghét, oán hận đã trào dâng. Tên quan phụ mẫu quả là kẻ táng tận lương tâm, lòng lang dạ sói. Hắn dường như không còn chút tình người và tính người trong huyết quản.
Xây dựng hình ảnh nhân vật tên quan phụ mẫu, Phạm Duy Tốn muốn tố cáo lực lượng sai nha, chức sắc phong kiến với bản chất ích kỉ, tàn nhẫn đã không có chút trách nhiệm đối với cuộc sống của nhân dân. Bỏ nhân dân trong cảnh “sống chết mặc bay” điêu linh, khốn khổ. Chính điều đó đã làm nên giá trị hiện thực và nhân đạo cho bông hoa đầu mùa của truyện ngắn hiện đại Việt Nam.
+Đình cao ráo , vững chãi , an toàn.
+ Đồ dùng sinh hoạt của quan xa hoa, đủ đầy : ống thuốc bạc, đồng hồ vàng, dao chuôi ngà ,....
+ Quan ngồi chơi nhàn nhã, có kẻ hầu người hạ túc trực, đèn thắp sáng trưng.
+ Quan đỏ mặt, tía tai ,quát đuổi cổ người dân báo đê vỡ , đổ vấy tội cho những người dân vô tội.
=>Cuộc sống sinh hoạt nhàn hạ , an toàn , xa hoa.
Khài quát cảm nghĩ về cuộc sốa sỉng sinh hoạt của tên quan phụ mẫu là:
- Nơi ở : trên một đình cao vững trãi ( dẫu nc nhiều cx ko ngập dc )
- Đồ dùng sinh hoạt xa hao, xa sỉ mà ko phải bất kì ai cx có
-Thích ăn chơi hưởng lạc ( chơi bài nói chung và chơi tổ tôm nói riêng )
- Cuộc sống nhàn hạ có đầy đủ kẻ hầu người hạ có vẻ trang nghiêm lắm