1 Qua truyện truyền thuyết thời vua hùng đã học, em hiểu biết về điều gì?
2 Qua các truyện ngụ ngôn đã học , em rút ra đc những bài học gì trong cuộc sống ?
Các bn tl nhanh hộ mik vs
Mik đang cần gấp lắm
Cảm ơn các bn trc 😙😙😙
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Qua các câu truyện truyền thuyết đã học em hiểu về thời đại Hùng Vương về đời sống văn hóa họ luôn phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, về tâm người Việt thì họ có trí tưởng tượng phong phú để có thể sáng tác ra nhiều câu truyện.
Từ các câu chuyện ngụ ngôn đã học, em rút ra được bài học gì cho bản thân trong cách ứng xử với bạn bè, trong học tập, trong thái độ với mọi người. Chúng ta không nên có những thói hư tật xấu như huênh hoang, khoe khoang, cho là mình tài giỏi. Chúng ta cần tôn trọng người đối diện và cũng như khéo léo trong ăn nói và giao tiếp. Cần có lập trường của bản thân , tránh làm trò cười cho thiên hạ.
Tham khảo ạ:
Hùng Vương ngày xưa có 4 câu chuyện đáng nhớ nhất. Đó là những câu chuyện về sự tích con người, anh hùng đánh giặc cứu nước, sự tích bành chưng bánh giầy, cuộc đánh nhau giữa 2 vị thần. Sau đây là bài kể ngắn gọn của mình:
1. Con Rồng Cháu Tiên:LLQ và ÂC kết duyên thành vợ chồng, sinh ra bọc trăm trứng, nở ra trăm con, chia con cai quản các phương, lập nước là Văn Lang, bắt đầu thời Vua Hùng. Về sau, người VN tự hào về nguồn gốc đẹp đẽ, cao quý của mình.
2. Thánh Gióng: đến đời Hùng Vương thứ 6, giặc Ân xâm lược, cậu bé làng gióng ra đời, lớn lên kì lạ. Khi nghe có người rao tìm người tài đi đánh giặc, cậu biết nói biết cười. Nhân dân nuôi cậu khôn lớn cho tới khi sứ giả đem vũ khí tới, cậu vươn vai thành tráng sĩ quất ngựa phi thẳng đến nơi có giặc. Sau khi đánh tan lũ giặc Gióng cùng ngựa bay về trời. Vua nhớ công ơn lập đền thờ và phong cho Gióng là Phù Đổng Tiên Vương.
3. Bánh Chưng Bánh Giầy: sang đời vua Hùng thứ 7, vua chọn người nối ngôi.Lang Liêu được thần báo mộng và dạy cho cách làm bánh. Sau khi suy nghĩ, chàng đã làm ra 2 loại bánh. Đó là bánh chưng, bánh giầy và chàng được truyền ngôi. Từ đấy, người Việt Nam ta đã làm Bánh chưng Bánh giầy vào ngày tết.
4. Sơn Tinh Thủy Tinh: tới thời Hùng Vương thứ 18, Sơn Tinh, Thủy Tinh đều muốn lấy Mị Nương làm vợ. Trận đánh của họ rất ác liệt. Cuối cùng Sơn Tinh thắng trận. Thủy Tinh hàng năm dâng nước lên đánh Sơn Tinh nhưng đều thất bại. Do đó tạo nên cảnh lũ lụt hàng năm xảy ra ở nước ta.
+ Các sự việc chính cần kể được ở mỗi truyện:
1. LLQ và Âu Cơ kết duyên vợ chồng đẻ ra bọc trăm trứng, nở trăm con, chia con cai quản địa phương, lập ra nước Văn Lang bắt đầu các thời Vua Hùng. Người Việt Nam tự hào về nguồn gốc đẹp đẽ, cao quý “Con Rồng cháu Tiên”.
2. Đến thời Vua Hùng thứ 6, giặc Ân xâm lược, cậu bé làng Gióng ra đời, lớn lên kì lạ… vươn vai thành tráng sĩ… đánh tan giặc rồi bay về trời… Vua nhớ công ơn phong là Phù Đổng Thiên Vương… đó là Thánh Gióng- người anh hùng chống giặc ngoại xâm trong mơ ước của nhân dân.
3. Sang đời Hùng Vương thứ 7, vua chọn người con nối ngôi. Lang Liêu làm bánh chưng, bánh giầy… Được truyền ngôi. Chàng là người anh hùng sáng tạo văn hóa- phong tục tập quán tốt đẹp ấy còn được gìn giữ và lưu truyền đến muôn đời.
4. Tới thời Hùng vương thứ 18, sơn tinh ,thủy tinh đều muốn lấy Mị nương làm vợ. Trận giao tranh của học rất ác liệt. cuối cùng Sơn Tinh chiến thắng
Thủy Tinh hằng năm dâng nước đánh ghen nhưng đều thất bại. Sơn Tinh là hình ảnh người anh hùng trị thủy và ước mơ chế ngự thiên nhiên của người xưa
mk làm lại cho bn dễ nhìn nhé ^v^
Bạn có thể mở ngữ văn 6 ra nhé, nếu ko hiểu hoặc trục trặc gì đó mình sẽ giúp
TRUYỀN THUYẾT "CON RỒNG CHÁU TIÊN":
(Truyền thuyết kể rằng vua Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ, bà Âu Cơ sinh ra được một bọc 100 trứng, nở thành 100 người con trai.)
Cách đây lâu đời lắm, ở Lĩnh Nam có một thủ lĩnh tên là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương Vương, sức khoẻ tuyệt trần, lại có tài đi lại dưới nước như đi trên cạn. Một hôm, Kinh Dương Vương đi chơi hồ Ðộng Ðình, gặp Long Nữ là con gái Long Vương, hai người kết thành vợ chồng và ít lâu sau sinh được một trai, đặt tên là Sùng Lâm. Lớn lên Sùng làm rất khoẻ, một tay có thể nhấc bổng lên cao tảng đá hai người ôm. Cũng như cha, Sùng Lâm có tài đi lại dưới nước như đi trên cạn. Khi nối nghiệp cha, chàng lấy hiệu là Lạc Long Quân.
Lúc bấy giờ ở đất Lĩnh Nam còn hoang vu, không một nơi nào yên ổn, Lạc Long Quân quyết chí đi du ngoạn khắp nơi.
Ðến vùng bờ biển Ðông Nam, Lạc Long Quân gặp một con cá rất lớn. Con cá này đã sống từ lâu đời, mình dài hơn năm mươi trượng, đuôi như cánh buồm, miệng có thể nuốt chửng mười người một lúc. Khi nó bơi thì sóng nổi ngất trời, thuyền bè qua lại đề bị nó nhận chìm, người trên thuyền đều bị nó nuốt sống. Dân chài rất sợ con quái vật ấy. Họ gọi nó là Ngư tinh. Chỗ ở của Ngư tinh là một cái hang lớn ăn sâu xuống đáy biển, trên hang có một dãy núi đá cao ngăn miền duyên hải ra làm hai vùng.
Lạc Long Quân quyết tâm giết loài yêu quái, trừ hại cho dân, Lạc Long Quân đóng một chiếc thuyền thật chắc và thật lớn, rèn một khối sắt có nhiều cạnh sắc, nung cho thật đỏ, rồi đem khối sắt xuống thuyền chèo thẳng đến Ngư Tinh, Lạc Long Quân giơ khối sắt lên giả cách như cầm một người ném vào miệng cho nó ăn. Ngư Tinh há miệng đón mồi. Lạc Long Quân lao thẳng khối sắt nóng bỏng vào miệng nó. Ngư Tinh bị cháy họng vùng lên chống cự, quật đuôi vào thuyền của Lạc Long Quân. Lạc Long Quân liền rút gươm chém Ngư Tinh làm ba khúc. Khúc đầu hoá thành con chó biển. Lạc Long Quân lấy đá ngăn biển chặn đường giết chết con chó biển, vứt đầu lên một hòn núi, nay gọi hòn núi ấy là Cẩu Ðầu Sơn, khúc mình của Ngư Tinh trôi ra xứ Mạn Cẩu, nay còn gọi là Cẩu Ðầu Thủy, còn khúc đuôi của Ngư Tinh thì Lạc Long Quân lột lấy da đem phủ lên hòn đảo giữa biển, đảo ấy nay còn mang tên là Bạch Long Vĩ.
Trừ xong nạn Ngư Tinh, Lạc Long Quân đến Long Biên. Ở đây có con cáo chín đuôi sống đến hơn nghìn năm, đã thành tinh. Nó trú trong một hang sâu, dưới chân một hòn núi đá ở phía Tây Long Biên. Con yêu này thường hóa thành người trà trộn trong nhân dân dụ bắt con gái đem về hang hãm hại. Một vùng từ Long Biên đến núi Tản Viên, đâu đâu cũng bị Hồ Tinh hãm hại. Nhân dân hai miền rất lo sợ, nhiều người phải bỏ cả ruộng đồng, nương rẫy, kéo nhau đi nơi khác làm ăn.
Lạc Long Quân thương dân, một mình một gươm đến sào huyệt Hồ tinh, tìm cách diệt trừ nó. Khi Lạc Long Quân về đến tới cửa hang, con yêu tinh thấy bóng người, liền xông ra, Lạc Long Quân liền hoá phép làm mưa gió, sấm sét vây chặt lấy con yêu. Giao chiến luôn ba ngày ba đêm, con yêu dần dần yếu sức, tìm đường tháo chạy, Lạc Long Quân đuổi theo chém đứt đầu nó. Nó hiện nguyên hình là một con cáo khổng lồ chín đuôi. Lạc Long Quân vào hang cứu những người còn sống sót, rồi sai các loài thủy tộc dâng nước sông Cái, xoáy hang cáo thành một vực sâu, người đương thời gọi là đầm Xác Cáo, đời sau mới gọi là Tây Hồ.
Dẹp yên nạn Hồ Tinh nhân dân quanh vùng lại trở về cày cấy trên cánh đồng ven hồ, và dựng nhà lập xóm trên khu đất cao nhất gọi là làng Hồ, đến nay vẫn còn.
Thấy dân vùng Long Biên đã được yên ổn làm ăn Lạc Long Quân đi ngược lên vùng rừng núi đến đất Phong Châu. Ở vùng này có một cây cổ thụ gọi là cây chiên đàn, cao hàng nghìn trượng, trước kia cành lá sum suê tươi tốt che kín cả một khoảng đất rộng, nhưng sau nhiều năm, cây khô héo, biến thành yêu tinh, người ta gọi là Mộc Tinh. Con yêu này hung ác và quỷ quyệt lạ thường. Chỗ ở của nó không nhất định, khi thì ở khu rừng này, khi thì ở khu rừng khác. Nó còn luôn luôn thay hình đổi hạng ẩn nấp khắp nơi, dồn bắt người để ăn thịt. Ði đến đâu cũng nghe thấy tiếng khóc than thảm thiết, Lạc Long Quân quyết ra tay cứu dân diệt trừ loài yêu quái. Lạc Long quân phải luồn hết rừng này đến rừng kia và qua nhiều ngày gian khổ mới tìm thấy chỗ ở của con yêu. Lạc Long Quân giao chiến với nó trăm ngày đêm, làm cho cây long đá lở, trời đất mịt mù mà không thắng được nó. Cuối cùng Lạc Long Quân phải dùng đến những nhạc cụ như chiêng, trống làm nó khiếp sợ và chạy về phía Tây Nam, sống quanh quất ở vùng đó, người ta gọi là Quỷ Xương Cuồng.
Diệt xong được nạn yêu quái, Lạc Long Quân thấy dân vùng này vẫn còn đói khổ thiếu thốn, phải lấy vỏ cây che thân, tết cỏ gianh làm ổ nằm bèn dạy cho dân biết cách trồng lúa nếp, lấy ống tre thổi cơm, đốn gỗ làm nhà sàn để ở, phòng thú dữ. Lạc Long Quân còn dạy dân ở cho ra cha con, vợ chồng. Dân cảm ơn đức ấy, xây cho Lạc Long Quân một toà cung điện nguy nga trên một ngọn núi cao. Nhưng Lạc Long Quân không ở, thường về quê mẹ dưới thủy phủ và dặn dân chúng rằng: “Hễ có tai biến gì thì gọi ta, ta sẽ về ngay! ”
Lúc bấy giờ có Ðế Lai từ phương Bắc đem quân tràn xuống phương Nam. Ðế Lai đem theo cả người con gái yêu rất xinh đẹp của mình là Âu Cơ và nhiều thị nữ. Thấy Lĩnh Nam phong cảnh tươi đẹp, lại nhiều chim muông, nhiều gỗ quý. Ðế Lai sai quân dựng thành đắp lũy định ở lâu dài. Phải phục dịch rất cực khổ, nhân dân chịu không nổi, hướng về biển Ðông gọi to: “Bố ơi! Sao không về cứu dân chúng con!”. Chỉ trong chớp mắt, Lạc Long Quân đã về.
Nhân dân kể chuyện, Lạc Long Quân hóa làm một chàng trai rất đẹp, có hàng trăm đầy tớ theo hầu, vừa đi vừa hát đến thẳng chỗ Ðế Lai ở. Lạc Long Quân không thấy Ðế Lai đâu cả, mà chỉ thấy một cô gái nhan sắc tuyệt trần cùng vô số thị tỳ và binh lính. Cô gái xinh đẹp đó là Âu Cơ. Thấy Lạc Long Quân uy nghi tuấn tú nàng đem lòng say mê, xin đi theo Lạc Long Quân. Lạc Long Quân đưa Âu Cơ về ở trong cung điện của mình, trên núi cao. Ðế Lai về, không thấy con gái đâu, liền sai quân lính đi tìm khắp nơi, hết ngày này qua ngày khác. Lạc Long Quân sai hàng vạn các ác thú ra chặn các nẻo đường, xé xác bọn chúng làm cho chúng khiếp sợ bỏ chạy. Ðế Lai đành thu quân về phương bắc.
Lạc Long Quân ở với Âu Cơ được ít lâu thì Âu Cơ có mang, sinh ra một cái bọc. Sau bảy ngày cái bọc nở ra một trăm quả trứng. Mỗi trứng nở ra một người con trai. Trăm người con trai đó lớn lên như thổi, tất cả đều xinh đẹp khoẻ mạnh và thông minh tuyệt vời.
Hàng chục năm trôi qua, Lạc Long Quân sống đầm ấm bên cạnh đàn con, nhưng lòng vẫn nhớ thủy phủ. Một hôm Lạc Long Quân từ giã Âu Cơ và đàn con, hóa làm một con rồng vụt bay lên mây, bay về biển cả. Âu Cơ và đàn con muốn theo Lạc Long Quân, nhưng không đi được, buồn bã ở lại trên núi. Hết ngày này qua ngày khác, họ mỏi mắt trông chờ mà vẫn biền biệt tăm hơi. Không thấy Lạc Long Quân trở về, nhớ chồng quá, Âu Cơ đứng trên ngọn núi cao hướng về biển Ðông lên tiếng gọi: “Bố nó ơi! Sao không về để mẹ con chúng tôi sầu khổ thế này”.
Lạc Long Quân trở về tức khắc. Âu Cơ trách chồng:
– Thiếp vốn sinh trưởng ở núi cao, động lớn, ăn ở với chàng sinh được trăm trai, thế mà chàng nỡ lòng bỏ đi, để mặc con thiếp sống bơ vơ khổ não.
Lạc Long Quân nói:
– Ta là loài rồng, nàng là giống tiên, khó ở với nhau lâu dài. Nay ta đem năm mươi con về miền biển, còn nàng đem năm mươi con về miền núi, chia nhau trị vì các nơi, kẻ lên núi, người xuống biển, nếu gặp sự nguy hiểm thì báo cho nhau biết, cứu giúp lẫn nhau, đừng có quên.
Hai người từ biệt nhau, trăm người con trai tỏa đi các nơi, trăm người đó trở thành tổ tiên của người Bách Việt. Người con trưởng ở lại đất Phong Châu, được tôn làm vua nước Văn Lang lấy hiệu là Hùng Vương. Vua Hùng chia ra làm mười năm bộ, đặt tướng văn, võ gọi là lạc hầu, lạc tướng. Con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương. Ngôi vua đời đời gọi chung một danh hiệu là Hùng Vương.
Lạc Long Quân là người mở mang cõi Lĩnh Nam, đem lại sự yên ổn cho dân. Vua Hùng là người dựng nước, truyền nối được mười tám đời. Do sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ, nên dân tộc Việt Nam vẫn kể mình là dòng giống Tiên Rồng.
TRUYỀN THUYẾT "BÁNH CHƯNG BÁNH DÀY":
Trong các mâm cỗ ngày Tết, hay trên bàn thờ gia tiên của gia đình luôn có bánh Chưng, bánh Dầy.
Người xưa quan niệm Đất hình vuông, và Trời là hình tròn, Bánh Chưng hình vuông tượng trưng cho đất, bánh Dầy hình tròn tượng trưng cho trời, hai loại bánh này được làm từ gạo nếp, cũng chính nhắc nhở chúng ta về truyền thống lúa nước của Việt Nam ta, bên cạnh đó cũng là truyền thống hiếu kính với tổ tiên.
Bánh Chưng, bánh Dầy không chỉ là tượng trưng cho vũ trụ nhân sinh mà còn tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở. Bánh Chưng cũng là tượng trưng cho mẹ, bánh Dầy tượng trưng cho cha. Trên mâm cỗ giỗ tổ Hùng Vương, bánh Chưng biểu tượng cho cha Rồng, bánh Dầy biểu tượng cho mẹ Tiên, chính là cội nguồn truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ sinh ra dân tộc Việt.
Truyề n thuyết: Xưa kia, vào đời Hùng Vương thứ 6, sau khi dẹp loạn giặc Ân, Vua Hùng cảm thấy mình đã tuổi cao sức yếu, nên có ý định muốn truyền ngôi báu. Ngặt nỗi ông lại có đến hai mươi người con trai, vua phân vân không biết chọn người nào lên làm vua. Cũng sắp đến Tết, Vua mới ngỏ ý mời các con lại và bảo:
– Ta tuổi đã cao, không còn sống bao lâu nữa, việc nước lại lớn lao. Ta muốn tìm trong số các con một người ưng ý để lên làm vua.
Các hoàng tử im lặng nghe Vua tiếp:
– Người nối ngôi không những tài giỏi mà còn phải có tấm lòng nhân hậu bao dung. Ta có ý thế này: cũng sắp Tết đến xuân sang, con nào bày cho ta một cỗ ngon, có ý nghĩa nhất thì ta sẽ truyền ngôi cho người đó.
Nghe thấy thế thì các hoàng tử hào hứng về nhà chuẩn bị của ngon vật lạ, người lên rừng người xuống biển, hễ ở đâu nghe nói có vật ngon của lạ là họ tìm bằng được, chẳng quản ngại xa xôi. Trong khi ấy, chỉ có người con trai thứ 18 của Vua Hùng – Lang Liêu là lẻ loi hơn cả, chàng mất mẹ từ sớm, lại hiền hậu nhân từ, sống đạo đức từ bé, ít sống dựa vào bổng lộc vua ban nên nhà cửa đơn sơ giản dị. Ông lo lắng không biết phải làm cỗ sao cho phải. Ngày tuyển chọn sắp đến gần mà Lang Liêu vẫn chưa nghĩ ra món gì xứng đáng để dâng lên vua cha.
Một hôm nọ, đang nằm vắt tay lên trán suy nghĩ, Lang Liêu ngủ quên lúc nào không hay, trong giấc mơ, có một vị thần đến bảo chàng: “Con này, trong trời đất không gì quý bằng hạt gạo, gạo là thức ăn nuôi sống con người chúng ta, con hãy lấy gạo nếp ra làm bánh hình tròn tượng trưng cho trời, làm bánh hình vuông tượng trưng cho đất, lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong tượng hình cho Cha Mẹ sinh thành.”
Lang Liêu tỉnh dậy thì lấy làm vui mừng lắm, bèn làm ngay theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp thật ngon để làm vỏ bánh vuông tượng Đất, đặt nhân đỗ xanh, thịt lợn, bọc lá dong bên ngoài, sau đó bỏ vào chõ chưng chín, gọi là Bánh Chưng. Tiếp đến ông giã xôi thật xuyễn, đặt nhân đỗ xanh để làm bánh tròn, tượng hình trời, gọi là bánh Dầy.
Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ, nào sơn hào hải vị, nhiều của ngon vật lạ đều được dâng lên vô cùng đẹp mắt. Nhà Vua đi khắp một lượt, rất ưng ý hài lòng, đến mâm cỗ của lang Liêu, thấy có bánh hình vuông tròn rất lạ, Vua cho hỏi thì Lang Liêu đem chuyện mộng thấy vị thần kể hết cho vua cha, giải thích ý nghĩa của hai loại bánh này. Vua Hùng nếm thử thì thấy rất ngon, lại có ý nghĩa, bèn truyền ngôi cho Lang Liêu.
Cũng kể từ đó, mỗi khi đến Tết Nguyên Đán thì dân chúng làm bánh Chưng và Bánh Dầy để cúng tổ tiên và trời đất. Truyền thông đó còn lưu truyền mãi đến ngày nay.
TRUYỀN THUYẾT "THÁNH GIÓNG":
Phù Đổng Thiên Vương tên gọi Thánh Gióng, là một trong bốn vị Tứ bất tử, là 4 vị Thánh bất tử trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Ông được xem là tượng trưng cho tinh thần chống ngoại xâm và sức mạnh tuổi trẻ.
Sự tích Thánh Gióng – Phù Đổng thiên vương ra đời trong khoảng thế kỷ 3-2 trước Công nguyên, thoạt đầu là vị thần khổng lồ có nguồn gốc từ thần đá và thần tre trúc sau đó phát triển lên thành anh hùng dân tộc chống ngoại xâm; gắn với sự hình thành liên minh Âu Lạc bởi nó ẩn chứa trong mình cả hai thành tố Âu, Lạc.
Triều đại nhà Lý, Thái Tổ Thần Vũ hoàng đế Lý Công Uẩn đã tặng ông là Xung Thiên Thần Vương.
Truyền thuyết kể rằng về đời Vua Hùng Vương thứ sáu, đất nước hòa bình lâu ngày, Vua Hùng Vương chểnh mảng việc phòng bị đất nước, nên bị giặc Ân xâm lược. Vua Hùng sai sứ giả đi khắp nước cầu người tài đánh giặc cứu nước.
Một hôm sứ gỉa gặp một cậu bé 3 tuổi con nhà nghèo xin đi đánh giặc.
Đứa bé ăn nhiều, lớn nhanh như thổi, cưỡi ngựa sắt, nhổ bụi tre đằng ngà làm vũ khí, đánh tan giặc Ân, rồi bay về trời.
Truyền thuyết này nhắc nhở người Việt nếu không luôn luôn chuẩn bị phòng vệ đất nước, thì cái họa bị xâm lược, bị đô hộ là khó tránh khỏi.
TRUYỀN THUYẾT "SƠN TINH THỦY TINH":
Truyền thuyết Sơn Tinh-Thủy Tinh kể rằng vào thời Vua Hùng Vương thứ 18 (khoảng năm 300 trước Công Nguyên), vua Hùng Vương thứ 18 có con gái tên là Mỵ Nương, Vua Hùng muốn gả chồng cho. Cả hai chàng trai dũng mãnh là Sơn Tinh, thần núi, và Thủy Tinh, thần biển, đều muốn hỏi nàng Mỵ Nương làm vợ. Vua Hùng Vương khó nghĩ, bèn ra một cuộc thi, rằng ai đưa được Voi Chín Ngà, Gà Chín Cựa, Ngựa Chín Hồng Mao đến trước làm đồ lễ, sẽ được gả con gái cho.
Có lẽ Vua Hùng Vương ý muốn gả con gái cho chàng Sơn Tinh, vì những đồ lễ cưới trên đều là sản vật ở vùng núi cả, vùng biển của chàng Thủy Tinh không có những thứ đó.
Sáng hôm sau, chàng Sơn Tinh đưa đủ lễ vật hỏi cưới đến trước, nên được Vua Hùng Vương gả con gái Mỵ Nương cho, chàng Sơn Tinh đưa vợ về vùng núi Tản Viên.
Chàng Thủy Tinh đến sau, thấy Sơn Tinh lấy mất Mỵ Nương rồi, bèn tức giận, hô phong, hoán vũ, giâng nước lũ lụt lên đánh Sơn Tinh.
Chàng Sơn Tinh vô cùng dũng mãnh, hóa phép dâng núi lên cao hơn, đánh lại Thủy Tinh.
Cuối cùng, Thủy Tinh thất bại, phải rút chạy về.
Nhưng Thủy Tinh vẫn thù dai, hàng năm, cứ đến tháng 7, tháng 8, Thủy Tinh lại dâng nước lên đánh nhau với Sơn Tinh, đến tận ngày nay.
Đây là truyền thuyết có lẽ bắt đầu từ chuyện hàng năm dân ta rất cực khổ về việc chống chọi với thiên tai, bão lụt.