K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

26 tháng 9 2019

- Số phận bất hạnh, bi kịch đến bước đường cùng.

- Tâm hồn vẫn giàu tình yêu thương, lòng tự trọng, tinh thần phản kháng.

23 tháng 9 2019

Hàng năm cứ vào cuối thu lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường... Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp”.

Đây là đoạn mở đầu truyện ngắn Tôi đi học của Thanh Tịnh. Những câu văn trong sáng, gợi cảm và giầu chất thơ kiểu như thế này đã để lại những dấu ấn đậm nét trong hành trang tinh thần của nhiều thế hệ bạn đọc. Có thể dễ dàng tìm thấy nhiều câu văn, nhiều đoạn văn đẹp và tha thiết trong các trang viết của ông. Thanh Tịnh thuộc loại nhà văn viết không nhiều. Tác phẩm của ông không gây ra những choáng váng, đột ngột mà nhẹ nhàng thấm sâu. Chừng nào con người còn yêu thương cảm xúc, còn nặng lòng gắn bó với quê hương, đồng loại thì còn tìm thấy trong những trang viết của Thanh Tịnh mối dây đồng cảm và niềm an ủi. Con người trong tình yêu, tình bạn, tình vợ chồng, cha con, con người với quê hương... tất cả đều được ngòi bút của ông trình bày một cách nhẹ nhàng, thanh thoát và đằm thắm.

Trước Cách mạng, tên tuổi Thanh Tịnh được gắn liền với những tập truyện ngắn. Nhưng trên con đường nghệ thuật của mình, nơi ông thử sức đầu tiên lại thuộc về lĩnh vực thơ ca. Thanh Tịnh xuất hiện và được “định vị” ngay trên thi đàn vào những năm đầu của phong trào Thơ mới. Năm 1936 bài thơ Rồi một hôm của ông đã đoạt giải nhất cuộc thi thơ do Hà Nội báo tổ chức. Một số bài thơ khác như Mòn mỏi in trên báo Tinh hoa, Tơ trời với tơ lòng in trên báo Phong Hóa vừa xuất hiện đã gây được tiếng vang trong công chúng. Trong dòng thơ nhiều phong cách nhiều giọng điệu trước cách mạng, Thanh Tịnh có một hơi thơ và giọng thơ riêng biệt. Những câu thơ lãng mạn, mang phong vị ngậm ngùi buốn man mác đã làm xao xuyến trái tim bao người đọc ngay từ khi mới ra đời. Thơ Thanh Tịnh nhẹ nhàng, êm ái giống như văn ông, và cái đặc sắc của nó nằm ở những lời, những ý đậm đà hương sắc, cảnh vật của làng quê Việt Nam. Ngay cả khi Thanh Tịnh lấy cảm hứng từ một câu chuyện bắt nguồn ở phương Tây thì bài thơ của ông vẫn toát ra một không khí rất Á Đông; Em ơi, nhẹ cuốn bức rèm tơ. Tìm thử chân mây khói tỏa mờ. Có bóng tình quân muôn dặm ruổi. Ngựa hồng tuôn bụi cõi xa mơ. Bài thơ hợp tình, hợp cảnh và gần gũi với tâm hồn người Việt Nam phần lớn là nhờ ở những câu thơ lục bát rất gần với ca dao: Bên rừng ngọn gió rung cây- Chị ơi con nhạn lạc bầy kêu sương. Thơ Thanh Tịnh có nhiều câu gần gũi với âm hưởng ca dao. Thế mạnh đó của ông ngày càng được phát huy. Sau này có rất nhiều câu thơ của Thanh Tịnh được lan truyền trong nhân dân với tư cách là những câu ca dao.

Hồn thơ Thanh Tịnh rất tinh tế. Ông cảm nghe được những bước chuyển mơ hồ của cỏ cây trời đất. Mỗi sự đổi thay, dù là nhỏ nhất của thời gian, không gian cũng làm rung động những sợi tơ mỏng manh trong tâm hồn nhạy cảm của ông:

Còn nhớ hôm xưa độ tháng này
Cánh đồng xào xạc gió đùa cây
Vô tình thiếu nữ cùng ta ngắm
Một đoạn tơ trời lững thững bay

Một con người đã nặng lòng, vì “một đoạn tơ trời” như vậy, ắt sẽ nặng lòng với cuộc sống trần gian này lắm. Trần gian và thơ dường như đều có sức níu kéo con người:

Tơ trời lơ lửng vươn mình uốn
Đến nối duyên mình với... cõi không

Thanh Tịnh làm thơ không nhiều, nếu không muốn nói là quá ít ỏi nếu so với các “chủ tướng” của phong trào Thơ mới như Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mạc Tử... Nhưng với những bài thơ đã có, ông cũng đã được ghi nhận như là một trong những gương mặt đã góp phần tạo nên “một thời đại mới trong thi ca” thời ký Thơ mới.

Tên tuổi của nhà thơ Thanh Tịnh được nhiều người biết đến rộng rãi hơn khi tập truyện ngắn Quê mẹ của ông ra đời vào năm 1941. Từ khi xuất hiện cho đến nay, Quê mẹ đã gắn liền với cuộc đời Thanh Tịnh và trở thành một dấu ấn quan trọng trong hành trình nghệ thuật của ông. Bao trùm lên toàn bộ tập truyện là một tình cảm êm dịu nhẹ nhàng của người dân vùng quê xứ Huế. Quê mẹ cũng như những tập truyện ngắn sau này phần lớn đều viết về Huế, nơi Thanh Tịnh sinh ra và lớn lên, đầy kỷ niệm. Nhiều truyện ngắn của ông mang đầy tính cách Huế, và tạo riêng cho ông một thi pháp văn xuôi độc đáo. Trong lời tựa tập Quê mẹ xuất bản lần đầu tiên, nhà văn Thạch Lam, cây bút truyện ngắn xuất sắc trước Cách mạng đồng thời là một người bạn của Thanh Tịnh đã có những lời nhận xét thật tinh tế và chính xác: “Thanh Tịnh có lẽ là nhà văn đầu tiên ở miền Trung đã trình bày các mối dây liên lạc nối ông với đồng nội quê hương, những dây liên lạc nhẹ như tơ đờn ngày thu, nhưng không vì thế mà kém phần vương vít và quyến luyến... Ông đã muốn làm người mục đồng ngồi dưới bóng tre thổi sáo để ca hát những vẻ đẹp của đời thôn quê”. Là một nhà thơ lãng mạn, Thanh Tịnh đã mang vào truyện ngắn chất trữ tình sâu lắng. Một chất thơ bàng bạc, thấm đẫm trên những trang văn xuôi của nhà thơ Thanh Tịnh. Tập Quê mẹ man mác tình quê hương, tình người. Từng trang viết của ông thấm đượm hương vị làng quê, một làng quê miền Trung với những vẻ đẹp thanh bình êm ả nhưng cũng không hiếm những cảnh đời khổ đau, ngang trái. Những trang văn đã làm sống dậy trước mắt người đọc khung cảnh êm đềm, thơ mộng của một làng quê. Làng Mỹ Lý nhỏ bé, nằm kế bên một dòng sông đã trở thành một địa chỉ quen thuộc, một biểu trưng nghệ thuật của tình yêu quê hương... Cái tên Mỹ Lý được xuất hiện nhiều lần trong các truyện ngắn khác nhau của nhà văn Thanh Tịnh. Quê hương, tình yêu quê hương như là sự nối dài mà thành tình yêu đất nước. Đọc truyện ngắn của Thanh Tịnh, chúng ta cảm nhận rất rõ điều này. Một làng quê nhỏ bé đã là cái nôi tâm hồn nuôi dưỡng những tác phẩm của ông. Ở đó chúng ta gặp gỡ và đồng cảm với tác giả trong mối tình quê hương rung rinh, lai láng trong khung cảnh sông nước ruộng đồng. Dường như tâm hồn ông gần gũi và ưa thích với những vẻ đẹp nhè nhẹ, những nét buồn lặng lặng...

Truyện ngắn Thanh Tịnh kể về một bến đò hiu hắt, một dòng sông với con đò dọc ẩn hiện những lời trao duyên tình tứ, về nỗi nhớ quê mẹ của một người con gái đi lấy chồng xa, về một nhà ga nho nhỏ giữa cánh đồng với con tàu bỏ lại đằng sau nó những hoài niệm về một tình yêu không bao giờ tới, về nỗi lòng bịn rịn của một cô gái quê khi phải chia tay với người bạn trai sau mùa gặt hái. Đọc những truyện ngắn của Thanh Tịnh, người ta thường ít chú ý đến cốt truyện mà chỉ nhớ cái không khí, cái dư vị quyến luyến ngọt ngào, có pha chút ngậm ngùi, buồn thương. Cảm giác ấy lắng sâu trong tâm hồn người đọc. Và cùng với cảm giác đó là một âm hưởng buồn buồn thấm thía qua những trang văn. Phong cách truyện ngắn của nhà văn Thanh Tịnh sớm định hình và tương đối nhất quán. Từ Quê me, Chị và em rồi đến Ngậm ngải tìm trầm, giọng điệu của ông không mấy thay đổi. Đặc trưng lớn nhất trong nghệ thuật truyện ngắn của Thanh Tịnh là ông thường miêu tả thế giới nội tâm của nhân vật bằng cảm giác. “Cái tôi” của tác giả khiêm nhường đứng đằng sau những con người bình thường và nhỏ bé. “Cái tôi” của những cảm giác, cảm xúc mơ hồ, thoáng qua rất khó nắm bắt. Những trạng thái tâm lý của nhân vật ít khi được bộc lộ một cách trực tiếp, cụ thể mà thường được thể hiện nhẹ nhàng, kín đáo. Thanh Tịnh tập trung sự chú ý của mình vào đời sống nội tâm của nhân vật, đặc biệt là những xao động bất chợt, những giây lát gặp gỡ tình cờ mà làm khuấy động cả một nếp sống thường ngày bình lặng. Trong truyện Bến Nứa ngòi bút của nhà văn Thanh Tịnh đã tỏ ra rất tinh tế khi ông tả nỗi lòng của một người thiếu phụ cô đơn. Đứa con ngây thơ bé bỏng của nàng đã vô tình khêu lên chút lửa lòng giữa nàng với người khách đi đò trong một đêm trăng sáng. Đứa bé mồ côi cha còn quá nhỏ để hiểu được nỗi bất hạnh của mình. Mỗi khi làm nũng mẹ, chú lại khóc đòi cha. Vì thương con nên mẹ chú thường “mượn” một người khách trong thuyền vờ làm “thầy” để dối con. Những lúc ấy chú bé mới chịu ngủ yên bên người cha giả. Nhưng đêm nay thì khác. Đằng sau cái trò đùa con trẻ ấy là tình cảm xao xuyến của một người thiếu phụ đang khao khát tình yêu: “Mảnh trăng hạ tuần giây bụi vàng trên quãng đồng lúa ruộng. Phương ẵm con ra ngồi trước mũi, gương mặt tự nhiên ửng hồng và đẹp một cách hiền hậu... Không hiểu tại sao, tối hôm nay lòng Phương lại rạo rực tê mê như đống tro tàn men hơi lửa”. Và trước tình cảm ấy, người khách đi đò đâu dễ dửng dưng, lòng chàng cũng “hồi hộp sẽ như cánh bướm”. Một thoáng gặp gỡ bất ngờ trên sông nước ấy đã trở thành nỗi khắc khoải khôn nguôi trong lòng người thiếu phụ. Mỗi đêm khuya, chèo thuyền qua bến cũ nàng lại cất tiếng gọi để mong tìm lại bóng người xưa. Nhưng đêm nào cũng vậy, đáp lời nàng chỉ có tiếng chuông chùa ngân dài trên mặt nước. Ở trên truyện này, Thanh Tịnh đã khéo dựng nên một khung cảnh êm đềm, thơ mộng phù hợp với tình huống xảy ra của câu chuyện. Thiên nhiên ở đây cũng tác động tích cực vào tình cảm của con người. Dòng sông, con đò, vầng trăng thường xuất hiện với vai trò là chủ thể trữ tình trong nhiều truyện ngắn của nhà văn Thanh Tịnh. Tình trong câu hát là một truyện ngắn hay của tập Quê mẹ. Ở đây câu chuyện thơ mộng cũng được diễn ra trên một con đò, một dòng sông. Đạt là một anh lái đò góa vợ, nhưng trong lòng luôn luôn tưởng nhớ tình xưa. Rồi một hôm trên dòng sông, bên con thuyền lướt qua, Đạt thoáng nhìn thấy bóng một người con gái giống hệt vợ mình. Đạt căng buồm đuổi theo, nhưng chiếc thuyền phía trước chạy như bay, “thấp thoáng trong chiều sương trông như bóng nhạn”. Biết không thể đuổi kịp con thuyền, Đạt đành mượn câu hát để bày tỏ lòng mình. Người con gái trên thuyền cũng cất tiếng hò tình tứ đáp lại lời Đạt. Tiếng hò của nàng cũng trong trẻo giống hệt như vợ chàng thưở trước. Hai con thuyền và tiếng hát vẫn chập chờn đuổi nhau trên mặt phá rộng mênh mông lấp loáng ánh trăng vàng. Cảnh thần tiên, như thực như mộng. Nhưng rồi mộng đã tan, từ thuyền của cô gái một câu hò chia biệt đã cất lên:

Tình về Đại Lược
Duyên ngược Kim Long
Đến đây là chỗ rẽ của lòng
Gặp nhau còn biết trên sông bến nào.

Lòng Đạt nghẹn ngào trước cảnh biệt ly. Chàng nhớ đến vợ cũ, đến người bạn mới gặp trong đêm mà không ngăn được dòng nước mắt. Chút tình thoảng qua ấy mãi mãi chỉ là tình trong câu hát. Những câu chuyện thơ mộng đầy huyền ảo đã được Thanh Tịnh viết bằng những câu văn đẹp và trau chuốt. Nhiều trang văn của Thanh Tịnh xứng đáng được xếp vào hàng ngũ những trang văn mẫu mực của văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn của Thanh Tịnh thường chảy trôi theo dòng cảm giác của nhân vật. Về đặc điểm này, các truyện ngắn của Thanh Tịnh có nhiều nét gần gũi với truyện ngắn của Thạch Lam, có những truyện đặt bên nhau tưởng chừng như đồng dạng. Trong nhiều truyện ngắn của Thanh Tịnh nhân vật không sống với hiện tại mà thường quay về với những hồi tưởng trong quá khứ, những hồi ức và kỷ niệm trở thành phần sống động nhất trong cuộc đời hôm nay. Số lượng những từ “nhớ lại”, “thoáng hiện”, “như thấy lại”, “sống lại”, “tưởng tượng ra”... tràn ngập trong các truyện ngắn của Thanh Tịnh. Ký ức từ dĩ vãng luôn gắn liền với dòng suy tưởng của nhân vật. Truyện ngắn Một đêm xuân kể về một nhà sư tu hành nơi am vắng đã bao năm, mà vẫn không sao dứt được lòng trần. Trong khi đang say sưa tụng kinh gõ mõ sư cụ lại “lắng hết tâm tư đuổi theo một giấc mơ huyền bí”. Chỉ một chút vang vọng của cuộc đời trần thế ngoài kia cũng đủ làm sư cụ buồn. “Một thứ buồn lạ lùng trên gương mặt chỉ biết bình tĩnh và trầm ngâm”. Trong tâm tưởng của nhà sư, quá khứ luôn luôn sống động: “Sư cụ còn nghe trong tưởng tượng những tiếng pháo xa xa nổ dòn như những chuỗi cười đêm Tết. Một luồng máu lạnh như đến tràn ngập trong lòng và bắt sư cụ tê mê một lúc. Sư cụ đi vào am và cảm thấy mình như một người lạc bước..." Tác giả tỏ ra rất tinh tế khi miêu tả diễn biến tâm lý của nhân vật. Sống với thế giới tâm linh nhưng con người cũng không thể tách rời với những vấn đề thuộc về đời sống tình cảm đã từng bao năm chi phối cuộc đời họ.

Thời gian, một mặt làm người ta lớn lên, trưởng thành, mặt khác cũng xóa bỏ biết bao điều tốt đẹp từng làm chỗ dựa tinh thần cho con người. Đọc Thanh Tịnh chúng ta thấy ông luôn ngoái nhìn về quá khứ với một niềm nhớ tiếc không nguôi. Quá khứ đã qua là qua hẳn, mang theo những đẹp đẽ tinh hoa của cả một thời. Có thể xem lời kết trong truyện Chị và em như một lời “tuyên ngôn” cho quan niệm đó của tác giả: “Đến nay, quãng đời xưa không còn nữa, mất đi cảnh sáng đẹp trong giấc nằm mơ. Ngày xanh tươi của tuổi thơ chỉ để lại trong lòng người một sự tiếc thương, ngậm ngùi và êm ái..." Điều đó làm nên nỗi buồn, sự thiếu hụt của con người trước những đổi thay mà thiếu nó, người ta sẽ sống nghèo nàn, cằn cỗi biết bao.

Truyện của Thanh Tịnh mang một âm hưởng buồn, ngậm ngùi, xót xa. Điều này càng được khẳng định hơn khi đọc những truyện viết về tình yêu của nhà văn. Hầu hết đều là những mối tình lỡ, tình câm, tình nghẹn, tình sương khói. Truyện của Thanh Tịnh vắng bóng những con người hạnh phúc, may mắn trong tình yêu. Phần lớn các truyện đều nói đến sự tan vỡ vừa đau xót vừa tất yếu của những mối tình đầu, của những đôi trai gái yêu vừa yêu nhau đã nhìn thấy trước sự chia ly vĩnh viễn, những Sương và Xuân (Tình thư) Duyên và Trưu (Bên con đường sắt), Xuân và Sương Hoa (Rosée), Phương và Thảo (Bến Nứa), Thuyên và Lê (Tình vay), Hương và Mẫn (Quê bạn)... Ở đây những người đang yêu không phải trải qua những thử thách ghê gớm những ngang trái éo le của số phận, phần lớn họ đều là những con người cam chịu. Tình yêu của họ chưa đủ mạnh để đến được với nhau trọn đời. Có thể gọi đó là những “khoảnh khắc yêu đương”, những “mối tình vơ vẩn” thì đúng hơn. Nhưng dù sao những nỗi đau, những niềm ai oán của những cuộc tình lỡ dở vẫn để lại trong lòng người đọc niềm thương cảm, bàng hoàng như chính mình đang trong cảnh ngộ. Những cuộc chia tay của Thanh Tịnh vừa thấm đẫm nỗi buồn thân phận, vừa mang vẻ tội nghiệp của những con người không biết vượt lên hoàn cảnh.

Xu hướng văn chương lãng mạn nhưng không tách rời hiện thực, đồng cảm xót xa với số phận của những con người nhỏ bé trong xã hội cũng là một nét lớn trong truyện ngắn của Thanh Tịnh. Những Am culi xe, Làng, Ngậm ngải tìm trầm, Con so về nhà mẹ, Con ông Hoàng, Chuyến xe cuối năm, Người khách đêm... là loạt truyện tiêu biểu cho xu hướng này. Am culixe và Ngậm ngải tìm trầm thuộc loại truyện truyền kỳ. Tác giả đã tìm được cốt truyện hay, kết cấu truyện chặt chẽ, gây được ấn tượng đối với người đọc. Vì cuộc mưu sinh, vì miếng cơm manh áo mà những người lao động nghèo khổ bị đẩy vào những cảnh ngộ bi đát, những bất hạnh khôn lường. Ở truyện Am culixe, Thanh Tịnh đã gợi lên một hình ảnh thật tội nghiệp, một đứa bé mười tuổi rách rưới, gầy còm, đêm đêm dắt người ông mù lòa, ốm yếu kéo một chiếc xe tay cũ nát, bánh nhồi rơm lủi thủi đi trong đêm vắng. Một đêm mưa giá lạnh chờ mãi không đón được người khách nào. Đứa cháu nhỏ vì thương ông đã bưng một hòn đá nặng dặt lên xe và giục ông chạy xe. Kinh nghiệm của một đời kéo xe khiến ông lão hiểu ngay được sự việc. Nhưng ông vẫn vờ như không biết và cắm cúi chạy xe. Dọc đường ông lão đã chết gục vì đói rét, buồn khổ và tuyệt vọng, để lại đứa cháu côi cút. Người nông dân hiền lành, chất phác trong truyện Ngậm ngải tìm trầm lại gặp phải một hòan cảnh đau đớn khác. Để tính chuyện mưu sinh cho vợ con, người chồng đã liều mạng ngậm ngải tìm trầm trong rừng sâu. Quá thời hạn trở về, bùa thiêng đã biến người chồng thành hổ. Nhưng đằng sau cái vỏ thú dữ khiến mọi người kinh sợ đó vẫn còn nguyên vẹn những tình cảm của một con người. Bi kịch nẩy sinh từ đó. Sau một lần về làng thăm vợ con, bị những người thân và dân làng khiếp hãi, xua đuổi người - hổ đành quay về rừng xanh, vĩnh viễn phải chịu cảnh chia lìa với gia đình và đồng loại.

Ở loại truyện này ngòi bút của Thanh Tịnh bớt đi vẻ nhẹ nhàng, bâng khuâng, thơ mộng. Lúc này ông không còn là “người mục đồng thổi sáo” ca ngợi cái tình và cái thi vị của một vùng quê nữa. Ông đi vào miêu tả thân phận những con người khốn khổ với một sự thấu hiểu và đồng cảm xót xa. Cái nhìn hiện thực của nhà văn được nâng lên ở một mức độ cao hơn. Thật dễ nhận ra trong truyện ngắn của Thanh Tịnh hình ảnh những con người nghèo khổ sau lũy tre làng. Tất cả ở họ đều ánh lên vẻ đẹp của tâm hồn: hiền lành, chất phác, giầu tình cảm... nhưng hầu như ai cũng có nỗi đau khổ riêng. Ở họ không bao giờ mất được lòng yêu thương giữa những con người cùng cảnh ngộ và lúc nào cũng khắc khoải một nỗi niềm nhớ về quê hương. Đặc biệt những người con gái như Thảo (Quê mẹ), Sương (Tình thư), Hương (Quê bạn), Phương (Bến Nứa), Duyên (Bên con đường sắt)...mà cuộc đời của họ tưởng đã bị vùi lấp đi giữa bao nhiêu ngày tảo tần kiếm sống, nhưng chính họ lúc nào cũng mong chờ cuộc sống mang lại cho mình cái phần quý giá thiêng liêng nhất là tình cảm.

Truyện ngắn của Thanh Tịnh luôn luôn đem lại những mối đồng cảm trong người đọc. Nhưng dù sao chúng ta vẫn mong muốn ở ông sự phanh phui sâu sắc hơn nữa những ngang trái, bất công trong đời sống của “những con người nhỏ bé”. Nhân vật trong tác phẩm của ông chưa có những tính cách độc đáo, điển hình. Nó thể hiện cái nhìn của nhà văn về cuộc đời, cái nhìn của người hiểu được sự trôi chảy không cùng của đời sống, chấp nhận và cam chịu. Nét riêng của Thanh Tịnh so với một số tác giả khác là khi diễn tả những nỗi bất hạnh của con người, ông không làm cho nó chói gắt lên, những tiếng kêu than của nhân vật và tác giả dường như bị nén lại sau những trang sách, song sự bất hạnh vì thế lại càng đọng lại trong lòng người đọc như một day dứt mãnh liệt. Với gần ba mươi truyện ngắn, những gì Thanh Tịnh để lại cho chúng ta trong con số khiêm nhường đó cũng là rất đáng trân trọng. Thông qua tâm hồn tác giả, hiện thực cuộc sống được phản ánh giản dị mà sâu sắc, không phải chỉ ở bên ngoài mà ở phần sâu kín bên trong. Tác phẩm của Thanh Tịnh đậm chất trữ tình, trong sáng và gợi cảm. Thạch Lam đã nhận xét rằng ở Thanh Tịnh “truyện ngắn nào hay đều có chất thơ, và bài thơ nào hay đều có cốt truyện”

Thanh Tịnh chỉ có một tập truyện dài duy nhất Xuân và Sinh, ra đời năm 1944. So với truyện ngắn, truyện dài của ông không đặc sắc bằng. Nó chỉ vẫn mang dung lượng của một truyện ngắn nhưng có phần dàn trải và ít sức khái quát hơn. Xuân và Sinh là một câu chuyện tình mang phong cách lãng mạn đậm nét. Ở đây chúng ta vẫn gặp một Thanh Tịnh tinh tế và đằm thắm khi miêu tả những trạng thái tình cảm của nhân vật. Cũng giống như phần lớn các truyện ngắn của Thanh Tịnh, Xuân và Sinh vẫn lấy bối cảnh và không gian nghệ thuật ở một vùng quê xứ Huế. Sinh là một cậu học trò nghèo lên trọ học ở Huế, sống cùng với người chị tên là Cam. Sau khi Cam bị chết vì bệnh lao, Xuân là bạn của Cam đã đón Sinh về nhà và giúp đỡ để cậu tiếp tục được đi học. Xuân là một cô gái làm nghề vũ nữ. Nàng sống rất tình cảm và giàu lòng nhân ái. Xuân và Sinh đều có tình cảm với nhau nhưng cả hai cùng che giấu. Sau bao nhiêu dằn vặt và khổ sở, chia ly và xa cách, cuối cùng họ cũng đã đến được với nhau. Một kết thúc có hậu rất hiếm hoi trong các sáng tác của Thanh Tịnh. Trước sau nhân vật của Thanh Tịnh vẫn là những con người “nhỏ bé” được đặt trong cuộc sống đời thường. Họ không phải là những người dám thay đổi hoàn cảnh mà thường bị dòng chảy của đời sống cuốn đi. Thân phận con người và sự biến đổi của thời gian, đó luôn luôn là mối quan tâm hàng đầu trong phần lớn các sáng tác của nhà văn Thanh Tịnh.

Tôi có may mắn dược biết nhà thơ Thanh Tịnh đã từ lâu. Ông vốn là bạn và là người đồng hương miền Trung với cha tôi, nhà thơ nhà viết kịch Lưu Quang Thuận. Nhưng cho đến năm 1983 khi Viện Văn học tổ chức làm tập sách Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học, được cử đến làm việc với ông, tôi mới có dịp hiểu rõ hơn về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông. Chúng tôi hiểu điều đã khiến cho mọi thi sĩ lãng mạn nổi danh từ thời tiền chiến như Thanh Tịnh đến với Cách mạng, hòa nhập và gắn bó hết lòng với thực tế kháng chiến đầy khó khăn, gian khổ. Đó chính là tình yêu da diết đối với con người, với quê hương đất nước, là sự nhạy cảm bản năng của người nghệ sĩ, là khát khao hướng tới sự hoàn thiện, sự tốt đẹp cho mỗi số phận con người. Đó cũng là những động lực giúp cho ông viết được những tác phẩm có sức sống lâu bền trong lòng người đọc, giúp cho ông có những thành công đáng kể ở ngay chặng đường đầu tiên bước vào nghề văn. Những trang viết nặng tình quê mẹ của nhà văn Thanh Tịnh sẽ còn song hành cùng bạn đọc ở những thế hệ mai sau.

#Châu's ngốc

23 tháng 9 2019

 HƯỚNG DẦN LÀM BÀI

* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:

+ Những cảm xúc của em vào đêm trước ngày khai trường như thế nào?

+ Những hoạt động nào được diễn ra vào đêm trước hôm đó?

+ Trên đường đến trường, em và mẹ có những cảm xúc ra sao?

+ Khung cảnh xung quanh có gì thay đổi, mới mẻ?

+ Đứng trước cổng trường, tâm trạng cùa em lúc đó là gì?

+ Khi bước vào sân trường, không khí ra sao? Khi gọi đến tên của em, suy

nghĩ của em lúc đó là gì?

+ Tiết học đầu tiên diễn ra trong cám nhận của em?

+ Suy nghĩ của em về ngày đầu tiên đi học?

DÀN Ý CHI TIẾT

I. MỞ BÀI

- Có thể  dẫn dắt bằng một đôi câu thơ hay bài hát "Ngày đầu tiên đi học, mẹ dắt

tay đến trường,... "

-  Ngày đầu tiên đi học luôn là ngày để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng chúng ta.

II.THÂN BÀI

Cảm xúc, tâm trạng cúa tôi trong đêm trước khi ngày mai đi học

-     Chộn rộn, háo hức đến lạ.

-     Chuẩn bị đầy đủ quần áo, cặp sách,... sần sàng cho ngày mai đi học.

-     Lo lắng, trằn trọc, khó ngủ.

-     Đã đi ngủ sớm nhưng vẫn không chợp mắt được vì mải lo nghĩ đến ngày mai sẽ ra sao?

2. Ngày dầu tiên đen trường.

  1. Trên đường đến trường

-     Sau khi mặc đồng phục, cả nhà chụp một tấm hình làm ki niệm “Ngày đầu tiên tôi đi học”.

-     Mẹ dắt tay tôi đi học với tất cả sự háo hức. tràn đầy niềm vui.

-    Con đường quen thuộc sao mà hôm nay bỗng nhiên thấy cái gì cũng lạ lẫm.Con đường, hàng cây, tiếng chim hót, đường phố xe cộ đông đúc qua lại,.. tất cả đều lạ lẫm

-     Nhìn xung quanh, tôi nhận thấy cùng cỏ nhiều bạn giống mình, cũng lần đầu tiên đến trường với biết bao điều thú vị.

2.Khi tới trường

Đứng trước cổng trường: cổng trường to lớn, hàng cây thật đẹp, bảng tên trường rất to và nghe sao thật hay... tôi như bị choáng ngợp.

Mẹ dắt tôi vào trường, còn tôi trong lòng xiết bao hồi hộp, lo lắng.

-     Bước vào sân trường: sàn trường thật rộng lớn, từng dãy phòng họ khang

trang, đẹp đẽ khiển tôi thật thích thú.

-     Xếp hàng: mẹ buông tay tỏi và bao tôi vào xếp hàng với các bạn theo sự

điều động của nhà trường.

-     Cảm xúc cùa tôi lúc này mắt rơm rớm nước mắt vì lo sự mẹ sẽ bỏ mình, bấu

víu lấy áo mẹ không rời,...

-     Mẹ tôi dịu dàng khuyên tôi phải mạnh dạn hơn.

3. Trong giờ học

-    Cô chủ nhiệm dắt cả lớp lên phòng học.Tôi vần cố ngoái nhìn xem mẹ có còn đứng trong sân trường không ? Tôi không thấy, lòng lại càng hồi hộp hơn nhưng tự nhủ sẽ mạnh mẽ hơn.

-     Bước lên phòng học, tôi và các bạn rất ngạc nhiên vì phòng học quá đẹp.

-    Phòng học đẹp là vì:sơn  phết màu sắc rất đẹp đẽ, từng cái bàn cái ghế được xếp gọn gàng, ngàn nắp. Trên các bức  tường  được trang trí hình ảnh dễ thương bắt mắt.

-     Chúng tôi bước vào bài học đầu tiên trong cuộc đời mình.

-     Cô giảng bài thật hay. Lời giảng du dương, trong treo, ngọt ngào đưa chúng tôi đến với sự thú vị của từng bài học.

-     Sau tiết học, tôi cảm thấy thật thích thú và hạnh phúc khi được đi học. Được cô giáo yêu thương, được làm quen bạn bè mới. Ôi thích thú làm sao!

d.Giờ ra về

-     Vừa bước chân xuống cầu thang, tôi đã nhìn thấy mẹ mình.

-     Tôi vui mừng chạy đến, hôn lên má mẹ.

-     Mẹ hỏi tôi nhiều điều về lớp học, về cô giáo, về bài học ngày hôm nay. Tôi kể

 mẹ nghe mọi việc.

-     Thấy tôi vui khi đi học về, mẹ cũng thấy hạnh phúc.

III. KẾT BÀI

-     Kỉ niệm ngày đầu tiên đi học của tôi là thế đó.

-     Biết bao cảm xúc xen lẫn vào nhau khiến tôi nhớ mãi.

BÀI VĂN THAM KHẢO

“Ngày đầu tiên đi học, mẹ dắt em tới trường, em vừa đi vừa khóc. Mẹ dỗ dành yêu thương,...” Đó là những cảm xúc đầu tiên của tôi khi chuẩn bị vào lớp một. Khi tôi ngân nga bài hát này thì lòng tôi lại nhớ đến những kỉ niệm đẹp của ngày đầu tiên đi học.

Nhớ lại lúc ấy, cái thuở tôi còn bé xíu cùng mẹ bước chân vào một ngôi trường tiếu học rộng thênh thang. Khi mới vừa bước chân vào trường thì tôi nắm lấy tay mẹ tôi thật chặt chứ không như những lúc ở nhà; đi đâu cùng được và cũng chẳng sợ gi. Có lẽ vì tôi đã quá quen với từng con hèm nhỏ ở nhà tôi nên tôi chẳng sợ gì cả, tôi chạy bỏ mẹ lại thật xa. Vậy mà lúc ấy tôi lại chẳng dám  rời khỏi mẹ dù chỉ một bước. Giờ học bắt đầu, cồng trường đóng lại, tôi bơ vơ trong lớp nhìn ra ngoài cổng xem còn có mẹ không. Tôi như ở một thế giới hoàn toàn khác khi tôi vừa chia tay mẹ. Lúc đó tôi chẳng biết phải làm gì chỉ biết đứng đỏ mà khóc. Và rồi, cô đến bên tôi, cô nắm lấy tay tôi và cô nói ràng: “Đừng sợ, có cô đây” Tôi nghe cô nói, lời nói thật ngọt ngào và dịu dàng biết bao. Tôi cứ ngỡ cô là người mẹ thứ hai của tôi, che chở, quan tâm, chăm sóc và dạy dỗ tôi. Tôi lúc ấy không còn đi chơi như ngày trước nữa mà tôi đã đi học.

Ngày đầu đi học thật khó, tôi chẳng biết gì cả. Tôi chẳng biết cầm bút, chẳng biết sách vở là gì nhưng điều đó chẳng khó gì khi có cô bên cạnh tôi. Cô đã chỉ tôi cách cầm bút, tập cho tôi viết chữ. Và rồi ba tiếng trống trường vang lên, báo hiệu giờ về đã đến. Những bạn khác thì được ba mẹ đón về nhà. Cô cũng về nhà, chỉ còn lại một mình tôi - cậu học trò lớp một cô đơn trong căn phòng lạnh lẽo. Tôi đã khóc, khóc rất to rồi đột nhiên có ai đó khẽ đặt tay lên vai tôi và nói: “Mình về nhà thôi con”, lúc đó  tôi mới nhận ra là mẹ đã ở bên tôi.

Ôi! Sao tôi thương đến thế, sao tôi nhớ đến thế. Cái ngày đầu tiên đi học của tôi. Cái ngày mà tôi có nhiều ki niệm nhất trong tuổi thơ của mình.

#Châu's ngốc



 

22 tháng 9 2019

tiếng cười với bà cco là tiếng cười đau xót ,thương cảm cho số phận người mẹ bị đày đọa

tiếng cười với mẹ là tiếng cười hạnh phúc,vui sướng khi đc gặp lại mẹ

Bài làm:

* Sự phát triển chủ nghĩa tư bản ở Anh:

  • Nhiều công trường thủ công: Luyện kim, cơ khí, làm đồ sứ, dệt len dạ…ra đời, phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài.
  • Nhiều trung tâm lớn về công nghiệp, thương mại, tài chính được hình thành, tiêu biểu là Luân Đôn.
  • Những phát minh về kĩ thuật, về các hình thức tổ chức lao động hợp lí làm cho năng suất lao động tăng nhanh.
  • Số đông địa chủ là quý tộc vừa và nhỏ chuyển sang kinh doanh theo lối tư bản. Họ trở thành tầng lớp quý tộc mới.

* Hệ quả:

  • Sự thay đổi về kinh tế, những mâu thuẫn gay gắt giữa tư sản, quý tộc với chế độ quân chủ chuyên chế dẫn tới cuộc CM lật đổ chế độ phong kiến, xác lập quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
22 tháng 9 2019

lịch sử lớp 8 hả bạn

22 tháng 9 2019

Hôm nay là một ngày khá là đẹp, mặt trời chiếu những tia nắng xen qua kẽ lá. Tôi đang lụi hụi nấu ăn, còn chồng thì chăm chú ngồi đọc sách. Chợt từ xa, lão Hạc với dáng vẻ buồn bã từ từ tiến lại gần nhà tôi, không biết có chủ ý gì mà lão qua đây. Tò mò tôi ló đầu ra hóng chuyện.

Vừa đến cửa, lão nói với chồng tôi, gương mặt hốc hác cúi cằm xuống:

- Cậu Vàng đi rồi ông Giáo ạ!

À thì ra lão qua đây để nói về con chó mà lão cưng, lão thương như vàng ấy. Không tránh khỏi sự ngạc nhiên, ông nhà hỏi:

- Cụ đã bán rồi à?

- Vâng, tôi bán rồi.

Lão nói với giọng bùi ngùi, gương mặt lão cố tỏ ra vui vẻ nhưng thật ra trong lòng đau đớn đến tột cùng. Lão cười, cười một cách quái dị, lão cười mà cứ như mếu. Trên đôi mắt đầy ắp những khổ cực bắt đầu ngân ngấn nước, đỏ hoe. Ông nhà tôi xót xa lắm, rót ly rượu mời lão rồi hỏi tiếp:

- Vậy nó cho bắt à?

Câu hỏi này có lẽ đã vô tình đụng vào nỗi đau mà lão Hạc cố chôn vùi. Lão bắt đầu khóc, lão khóc hu hu như một đứa trẻ, khóc như chưa từng được khóc. Nước mắt chan hòa với nỗi đau khiến lòng lão quặn lại, tim đau từng hồi. Những giọt nước mắt ấy tưởng chừng sẽ không có ở cái tuổi gần đất xa trời như lão, ấy vậy mà lại rơi vì trót lừa một con chó, lão nghẹn ngào:

- Khốn nạn... ông giáo ơi!... Nó có biết gì đâu. Nghe gọi về ăn cơm thì vẫy đuôi lật đật chạy về. Đang ăn thì thằng Mục và thằng Xiên trốn từ phía sau túm lấy cu cậu, loay hoay một lát là trói chặt cả bốn chân. Cái giống nó cũng khôn, biết mình bị bắt nên im lặng, chỉ kêu ư ử như muốn oán trách tôi vì sao lại đối xử tệ với nó như vậy. Ông giáo à! Ngay cả tôi cũng không hiểu vì sao mình bằng tuổi này rồi mà lại nhẫn tâm đi lừa một con chó, phản bội người bạn thân duy nhất của mình. Tôi thấy ân hận quá! Lão vừa nói vừa đấm thình thịch vào ngực mình, nước mát cứ thế mà rơi trên gương mặt xương xương, gầy gầy. Lão cấu xé, dằn vặt bản thân để thỏa nỗi đau đang cồn cào tận đáy lòng. Nhìn lão thế này, ông nhà tôi thấy đau lòng lắm, ông ôm lão mà khóc cùng và tôi thấy thương lão Hạc biết bao!

Người ngoài nhìn vào có thể sẽ nghĩ lão không được bình thường, không khóc vì khổ thì thôi chớ ai đời lại đi khóc vì bán chó. Bản thân tôi trước đây cũng nghĩ lão già rồi nên không còn minh mẫn, có tiền không tiêu, có ruộng vườn không bán, có chó không giết... nhưng bây giờ hiểu rõ sự tình, tôi thấy thương cho hoàn cảnh lão lắm. Vợ mất sớm, nhà nghèo, con trai thì không lấy được vợ, đứa con trai duy nhất phẫn chí bỏ đi phụ đồn điền cao su không biết khi nào về. Lão phải sống hiu quạnh cùng con chó là kỉ niệm mà người con trai để lại, lão cưng nên gọi là "cậu Vàng". Nhưng vì muốn giữ lại mảnh vườn cho con, lão đứt ruột bán đi cậu Vàng dù trong lòng đau như cắt. Không biết cậu Vàng đi rồi, lão Hạc sẽ sống chuỗi ngày còn lại như thế nào, ai sẽ quấn quýt bên lão những khi lão nhớ đến con trai, ai bên cạnh lão khi lão ốm yếu? Càng nghĩ tôi càng thấy thương lão. Giật mình khi thấy đồng hồ điểm mười hai giờ trưa, tôi phải tiếp tục nấu ăn. Còn lão Hạc với chồng tôi vẫn nói chuyện ở gian trên.

Lão Hạc quả là một con người đáng thương, ông có một tấm lòng yêu thương con trai và yêu con vật như yêu chính bản thân. Cuộc đời quả thật trớ trêu khi bắt con người ta phải sống trong sự đau khổ, kéo dài như thế. Còn về phần ông giáo cũng sống trong hoàn cảnh túng quẫn. Tuy nhiên ông có tấm lòng rộng lớn qua việc mặc dù nhỏ tuổi hơn lão Hạc rất nhiều nhưng khi nghe lão tâm sự, ông vẫn lắng nghe và chia sẻ cùng lão, không hề phàn nàn mà lại tỏ thái độ vô cùng lễ phép tôn trọng lão Hạc.

Đọc truyện ngắn của Nam Cao, đoạn lão Hạc sang báo tin bán chó với ông giáo đã để lại cho tôi cảm xúc khó tả, giúp tôi thấm thía, cảm nhận được những nỗi đau của lão Hạc cũng như những người nông dân thời xưa phải trải qua, họ phải sống trong tầng lớp nghèo khổ, bị khinh miệt rất đáng thương. Và đây cùng là đoạn trích mà tôi thích nhất.

22 tháng 9 2019

Năm nay tôi đã ngoài bảy mươi tuổi, nhưng mỗi lần nghe đứa cháu nội hỏi về chuyện xưa khi minh còn nhỏ được chứng kiến ngày giặc Pháp đô hộ và câu chuyện Lão Hạc trong sách giáo khoa Ngữ văn 8 cháu học là có thật không, thì lòng tôi lại trào lên bao cảm xúc với kỷ niệm về người hàng xóm già. Đó chính là nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn của Nam Cao. Ký ức sâu đậm về lần ông lão kể chuyện bán chó cho thầy Thứ của tôi cứ hiện lên mồn một.

Ngày ấy tôi mới lên mười, xã hội hỗn loạn, nay thấy đánh nhau chỗ này, mai thấy Tây đi càn chỗ kia. Thầy giáo Thứ đang dậy chúng tôi lớp đệ nhị ở trường làng bên, phải cho đám trò nghỉ. Tôi không biết vì sao, chỉ thấy người ta láo pháo đồn rằng thầy tôi ghét Tây, ngán cảnh chúng dòm ngó trường lớp nên cho chúng tôi nghỉ.

Ngày ngày thầy vẫn sang nhà lão Hạc trò chuyện với ông cụ. Tôi ở gần hay sang qua lại cùng thầy lúc giúp lão dọn nhà, lúc đùa nghịch với con chó Vàng. Không ngờ những chuyện thật về lão Hạc lại được thầy giáo tôi viết thành câu chuyện cảm động đến thế. Cái cảnh lão Hạc kể với thầy tôi về chuyện bán chó là lúc tôi chứng kiến tất cả.

Chả là hôm ấy, tôi đang giúp thầy nhặt đống khoai và lân la hỏi thầy về mấy chữ Hán khó hiểu. Thầy đang giảng cho tôi thì thấy lão Hạc tiến vào. Cái dáng điệu gầy gò của lão, hôm nay trông buồn thảm quá. Vừa nhìn thấy thầy Thứ, lão đã báo ngay:

- Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ!

- Cụ bán rồi?

- Bán rồi! Họ vừa bắt xong.

Lão Hạc cố làm ra vẻ vui vẻ nhưng tôi thấy lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước. Thầy tôi chắc cũng ái ngại cho lão nên chỉ ôm đôi bờ vai lão vỗ nhẹ như đồng cảm. Tôi thấy đôi mắt của thầy Thứ cũng như muốn khóc. Thầy hỏi lão Hạc:

- Thế nó cho bắt à?

Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những nếp nhăn xô lại với nhau ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc...

- Khốn nạn... Ông giáo ơi!... Nó có biết gì đâu! Nó thấy tôi gọi thì chạy ngay về vẫy đuôi mừng. Tôi cho nó ăn cơm. Nó đang ăn thì thằng Mục nấp trong nhà, ngay đằng sau nó, tóm lấy, hai cẳng sau nó dốc ngược nó lên. Cứ thế là thằng Mục và thằng Xiên, hai thằng chỉ loay hoay một lúc đã trói chặt cả bốn chân nó lại. Bây giờ cu cậu mới biết là cu cậu chết!... Này! ông giáo ạ! Cái giống nó cũng khôn! Nó cứ nằm im như trách tôi, nó kêu ư ử, nhìn tôi như muốn bảo rằng "A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão đối xử với tôi như thế này à?". Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó!

Thầy Thứ lại an ủi lão:

- Cụ cứ tưởng thế chứ nó chẳng hiểu gì đâu! Vả lại ai nuôi chó mà chả bán hay giết thịt! Ta giết nó chính là ta hoá kiếp cho nó đấy. Hoá kiếp để cho nó làm kiếp khác.

Lão Hạc chua chát bảo:

- Ông giáo nói phải! Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra nó sung sướng hơn một chút... Kiếp người như tôi chẳng hạn!...

Câu nói của lão làm tôi bùi ngùi, thầy Thứ hạ giọng:

- Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ! Cụ tưởng tôi sung sướng hơn chăng?

- Thế thì không biết nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng?

Lão cười và ho sòng sọc. Thầy tôi nắm lấy cái vai gầy của lão, ôn tồn bảo:

- Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái này là sung sướng: Bây giờ cụ ngồi xuống phản chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai lang, nấu môt ấm nước chè tươi thật đặc, ông con mình ăn khoai, uống nước chè, rồi hút thuốc lào... thế là sung sướng.

- Vâng! Ông lão dậy phải! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng

Lão nói xong lại cười đưa đà. Tiếng cười gượng nhưng nghe đã hiền hậu lại, thấy vậy tôi tê tái đứng lên:

- Thầy để con đi luộc khoai thầy nhé. Ừ, luộc giúp thầy, nhặt những củ to ấy, để thầy pha nước mời ông xơi - thầy tôi nhắc nhở.

- Nói đùa thế chứ ông giáo cho để khi khác... Lão Hạc ngần ngại.

- Việc gì còn phải chờ khi khác... Không bao giờ nên hoãn sự sung sướng lại, cụ cứ ngồi xuống đây.

Tôi đi luộc khoai. Thầy Thứ và lão Hạc ngồi nói chuyện lâu lắm, thầy tôi là người nhiều chữ nghĩa, hiểu biết và thương người nên có chuyện gì lão Hạc cũng tâm sự và sẻ chia.

Vừa luộc khoai, tôi vừa nghĩ về lão Hạc nhiều lắm. Tôi thương lão, con người già cả cô đơn nhưng ai cũng quý lão bởi lão sống lương thiện và nhân hậu. Tôi biết lão quý con Vàng của mình lắm vì nó là kỷ vật của anh con trai lão để lại mà. Tôi hiểu vì bần cùng lão mới làm như vậy.

Đã 60 năm, đất nước đổi thay chế độ, lão Hạc không còn, cuộc sống của người nông dân ngày nay đã khác. Nhưng hình ảnh lão Hạc đau đớn vì bán con chó cứ ám ảnh tôi mãi. Đó là kỷ niệm một thời khổ đau của đất nước mà người nông dân phải chịu nhiều cơ cực nhất. Nhưng chính trong hoàn cảnh đó tôi hiểu hơn về họ, về tình yêu thương chia sẻ của người thầy giáo tôi với những con người khốn khổ, về nhân cách và vẻ đẹp của người nông dân.

tham khảo nhé:

Trong cuộc đời, kiến thức rất quan trọng trong đời sống của chúng ta. Nhưng trong chúng ta không phải ai ai cũng đều được đi học cả đâu mà có rất nhiều người nghèo khó không có điều kiện để đi học. Và tôi nằm trong con số may mắn những người được đi học, được bồi dưỡng kiến thức và những bài học đạo đức thú vị. Vì vậy, những kỉ niệm về ngày đầu tiên đi học đối với tôi là những giây phút tuyệt vời, ấn tượng và khó phai trong lòng tôi.

Giờ đây tuy tôi đã là học sinh lớp tám rồi nhưng mồi khi nghe thấy tiếng trống “tùng... tùng... tùng... rất rõ năm đó là năm hai ngàn không trăm lẻ bảy. Vào hôm trước khi ngày khai trường diễn ra, tôi lấy làm hồi hộp và trong đầu cứ suy nghĩ về nhiều thứ liên quan đến trường lớp nào là “mình sẽ vào học ngôi trường như thế nào đây?”, “bạn bè có tốt không?”, “thầy cô có dữ không?”. Và những ngày này, ba mẹ tôi rất bận rộn. Không phải bận rộn vì công việc mà vì lo cho ngày khai trường đầu tiên của tôi. Ba thì đi mua giấy bao vở, dán nhãn, tập vở. Mẹ thì đi mua sách giáo khoa. Khi bao tập, tôi cứ nói thầm trong lòng không được làm dơ bất cứ cuốn tập nào nhưng suy nghĩ đó không được thực hiện tốt. Tôi đã làm rách bia giấy bao tập. Tôi liền òa khóc lên nhưng nhờ mẹ tôi dỗ dành, an ủi nên tôi mới thôi không khóc nữa. Ba thì chỉ cho tôi bao vở làm sao cho đúng cách và cẩn thận, dán nhãn ra sao cho đẹp và dính chặt. Chị hai thi viết tên của tôi lên các giấy nhãn đó. Ôi! Những con chữ như rồng bay phượng múa thật tuyệt đẹp.

Và tôi còn nhớ, tôi vô tình làm lem mực vào một cuốn vỡ. Tôi khóc còn nhiều hơn cả lúc làm rách bìa bao. Sau đó, chị tôi an ủi một vài phút sau tôi mới thôi khóc. Tập vở, sách giáo khoa, bút viết, cặp táp đều đã sẵn sàng. Đến tối, tôi không tài nào ngủ được, phải một lúc sau tôi mới thiếp đi. Đến sáng, sau khi đã thức dậy làm vệ sinh cá nhân xong thì ba chở tôi đến trườngCòn đưa cho tôi một quả bóng xinh xinh có hình mặt cười. Tôi thấy các em học sinh đến trường với gương mặt sáng sủa, vui vẻ. Tôi cảm thấy bản thân tự tin hơn hẳn khi có bộ đồng phục tuyệt đẹp trên người mình. Tôi thấy trường tôi vừa rộng rãi mà vừa đẹp đẽ nữa. Những cái cây cao cao có màu sắc đỏ thắm. Có bốn cái xích đu ở bốn góc sân trường.

Tôi giật thót tim khi nghe thây tiếng trống khai trường vang lên “tùng... tùng... tùng”. Cả trường bắt đầu xếp hàng ngay ngắn trên sân. Và không biết va vào đâu mà bong bóng tôi mang theo bị bê. Tôi cố gắng nén lại không khóc lên. May mắn là có một bạn kế bên chia bớt cho tôi một vài bông hoa để đi diễu hành. Sau khi cuộc diễu hành kết thúc, cô giáo chủ nhiệm đón học sinh lên lớp và cái bạn chia hoa khi nãy lại ngồi bên cạnh tôi. Mùi hương kì lạ của tập vở mới bỗng xông lên trong lớp. Đến giờ ra chơi dường như chỉ có khoảng mười lăm phút. Tôi ngồi trong lớp, không biết chơi với ai. và chơi trò gì nhưng có một đám bạn đến rủ tôi chơi. Tôi cảm thây xúc động làm sao! Khi ra về, tôi vẫy tay chào tạm biệt các bạn mới của mình và lên xe. Bóng các bạn xa dần và tôi cảm thấy trong lòng mình dâng lên một cảm xúc xao xuyến lạ thường.
Ngày đầu tiên đi học của tôi là như thế đó. Những kỉ niệm tyệt vời ấy luôn đọng lại trong trí óc của tôi và cũng những kỉ niêm ấy thúc giục tôi vào việc học tốt hơn. Vì vậy, tôi quyết tâm học tốt để không phụ lòng cha mẹ.

22 tháng 9 2019

Tham khảo :

http://thuthuat.taimienphi.vn/van-mau-ke-lai-nhung-ki-niem-ngay-dau-tien-di-hoc-37960n.aspx

~Std well~

23 tháng 9 2019

- Lom khom: dáng vẻ cúi, thấp, bước đi dò dẫm.

- Lác đác: thưa

- Khúc khuỷu: địa hình không bằng phẳng

- Thăm thẳm: sâu, hẹp

- Heo hút: cao, nhỏ