Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Đề tham khảo số 2 (Trắc nghiệm) SVIP
Yêu cầu đăng nhập!
Bạn chưa đăng nhập. Hãy đăng nhập để làm bài thi tại đây!
Những cây cầu bắc qua sông Hồng của Hà Nội
(Trích)
Cầu Long Biên
Cầu Long Biên là cây cầu thép đầu tiên bắc qua sông Hồng nối hai quận Hoàn Kiếm với quận Long Biên của Hà Nội, do Pháp xây dựng (1898 – 1902), đặt tên là cầu Paul Doumer, theo tên của Toàn quyền Đông Dương hồi đó. Dân gian còn gọi là cầu sông Cái hay cầu Bồ Đề (vì được bắc qua bến Bồ Đề thuộc huyện Gia Lâm).
Người ta phải tuyển mộ hơn 3.000 công nhân bản xứ và một đội ngũ khoảng 40 giám đốc, kĩ sư, chuyên gia và đốc công người Pháp để điều hành công việc. Vật liệu xây cầu đã dùng đến 30.000 m3 đá và kim loại (5.600 tấn thép cán, 137 tấn gang, 165 tấn sắt, 7 tấn chì). Tổng số tiền thực chi lên tới 6.200.000 franc Pháp bấy giờ. Cầu được khánh thành ngày 28 – 2 – 1902, có sự hiện diện của vua Thành Thái và Toàn quyền Paul Doumer.
Vào thời điểm bấy giờ, cây cầu này chiếm vị trí dài thứ hai trên thế giới, sau cầu Brooklyn bắc qua sông East - River của Mĩ.
Trong chiến tranh, cầu Long Biên bị bắn phá nặng nề. Cầu Long Biên đã hoàn thành sứ mệnh làm “đầu cầu” giao thông nối liền Thủ đô với các tuyến đường lên miền núi phía bắc và miền biển phía đông. Do cầu đã cũ và hỏng, có dự kiến dỡ bỏ cây cầu đi. Nhưng ý định ấy bị dư luận phản đối và hiện cầu Long Biên đang được sửa chữa, bảo tồn, như một kí ức vật thể của lịch sử Hà Nội cần được lưu giữ.
Cầu Thăng Long
Cầu Thăng Long bắc qua sông Hồng nối trung tâm Hà Nội với đường cao tốc Thăng Long - Nội Bài, cảng hàng không quốc tế Nội Bài. Đây được coi là công trình thế kỉ 20, biểu tượng cho tình hữu nghị Việt Nam – Liên bang Xô viết.
Cầu có kết cấu giàn thép, chiều dài hơn 3.250 m, gồm hai tầng, 25 nhịp phần chính và 46 nhịp cầu đường dẫn của đường sắt và đường dành cho xe thô sơ.
Cầu được khởi công xây dựng năm 1974, khánh thành vào tháng 5 – 1985. Hiện nay, cầu Thăng Long là một trong những cây cầu sắt dài nhất của Hà Nội, bắt đầu từ địa phận quận Bắc Từ Liêm nối sang địa phận huyện Mê Linh.
(Nguyễn Như Mai, Nguyễn Huy Thắng, Nguyễn Quốc Tín, Dạt dào sông nước, NXB Kim Đồng, 2015)
Đọc văn bản và trả lời câu hỏi:
Ngữ liệu thuộc kiểu văn bản nào?
Phương thức biểu đạt chính của văn bản là gì?
Mục đích chính của văn bản là gì?
Điểm chung của cầu Long Biên và cầu Thăng Long là gì?
Hành động phản đối việc dỡ bỏ cầu Long Biên cho biết điều gì về người Hà Nội?
Từ "đốc công" trong câu "Người ta phải tuyển mộ hơn 3.000 công nhân bản xứ và một đội ngũ khoảng 40 giám đốc, kĩ sư, chuyên gia và đốc công người Pháp để điều hành công việc." nghĩa là gì?
Thông tin nào có đề cập ở phần nói về cầu Long Biên mà không đề cập ở phần nói về cầu Thăng Long?
Phép liên kết được sử dụng trong đoạn sau là gì?
Cầu Thăng Long bắc qua sông Hồng nối trung tâm Hà Nội với đường cao tốc Thăng Long - Nội Bài, cảng hàng không quốc tế Nội Bài. Đây được coi là công trình thế kỉ 20, biểu tượng cho tình hữu nghị Việt Nam – Liên bang Xô viết.
Các số liệu được đề cập trong đoạn sau có tác dụng gì?
Người ta phải tuyển mộ hơn 3.000 công nhân bản xứ và một đội ngũ khoảng 40 giám đốc, kĩ sư, chuyên gia và đốc công người Pháp để điều hành công việc. Vật liệu xây cầu đã dùng đến 30.000 m3 đá và kim loại (5.600 tấn thép cán, 137 tấn gang, 165 tấn sắt, 7 tấn chì). Tổng số tiền thực chi lên tới 6.200.000 franc Pháp bấy giờ. Cầu được khánh thành ngày 28 – 2 – 1902, có sự hiện diện của vua Thành Thái và Toàn quyền Paul Doumer.
Khi Pháp xây dựng cầu Long Biên đã đặt tên cầu là gì?
Ngữ liệu sau được viết theo thể thơ nào?
Có nơi mô như ở quê mình
Mẹ đợi con, tóc hoá ngàn lau trắng
Lưng nặng thời gian, nghìn ngày trên bến vắng
Đứa tận miền Nam
Đứa ở Trường Sơn
Biền biệt không về...
(Quê mình, Tạ Nghi Lễ)
Dấu chấm lửng trong đoạn thơ sau có tác dụng gì?
Có nơi mô như ở quê mình
Mẹ đợi con, tóc hoá ngàn lau trắng
Lưng nặng thời gian, nghìn ngày trên bến vắng
Đứa tận miền Nam
Đứa ở Trường Sơn
Biền biệt không về...
(Quê mình, Tạ Nghi Lễ)
Câu văn sau sử dụng biện pháp tu từ nào?
Một số thủy thủ chất phác còn lại – chẳng bao lâu, chúng tôi đã phát hiện trên tàu vẫn còn có những thủy thủ như thế – thì lại là những tay khờ dại ra mặt.
(Đảo giấu vàng, Robert Louis Stevenson)
Câu văn sau sử dụng biện pháp tu từ nào?
Anh cứ yên tâm, vết thương chỉ sượt da thôi. Từ giờ đến sáng em có thể đi lên đến tận trời được.
(Mảnh trăng cuối rừng, Nguyễn Minh Châu)
Câu nào sau đây không phải là tục ngữ?